Thực ra, Lăng Dục Đức là ngôi lăng đơn giản nhất trong số các lăng tẩm ở Huế, mặc dù hiện nay nó nằm ngay trong khu vực nội thành Huế, nhưng khách viến thăm không nhiều. Rất nhiều trong số khách ghé thăm lăng là vì ở đó, ngoài các kiến trúc cổ ngày xưa, còn có mộ phần hai vị vua yêu nước : vua Thành Thái và vua Duy Tân (còn có thông tin rằng, người ta đang tính chuyện rước di cốt vua Hàm Nghi ở Pháp về an táng trong khuôn viên An Lăng).
Sau khi vua Tự Đức chết, ngai vàng triều Nguyễn nằm trong sự thao túng của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Thành (giai đoạn đầu) và của người Pháp (giai đoạn sau). Các đời vua Nguyễn về sau có hai dòng chính :
- Dòng Dục Đức : Dục Đức - Thành Thái - Duy Tân
- Dòng Đồng Khánh : Đồng Khánh - Khải Định - Bảo Đại
Đây là hai dòng có 3 thế hệ "ông - cha - con" làm vua, tất nhiên xen kẽ nhau. Chen vào đó là các vị vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi.
Trừ vua Hiệp Hòa là con vua Thiệu Trị (em vua Tự Đức), còn lại thì Đồng Khánh, Hàm Nghi, Kiến Phúc là ba anh em ruột (nhưng thứ tự làm vua thì lộn xộn : Kiến Phúc - Hàm Nghi - Đồng Khánh).
Lan man một chút về lịch sử. Dục Đức (Nguyễn Phúc Ưng Chân) thực ra không phải là nhân vật nổi bật - trừ việc lên ngôi 3 ngày rồi bị phế truất và tống ngục đến chết. Vì thời gian làm vua của ông ta ngắn ngủi đến mức còn chưa kịp đặt niên hiệu của mình. Nhưng thực tế, ông ta bị phế truất hoàn toàn là do ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Khi Thuyết và Tường phế vua Dục Đức, tất cả các quan đều sợ uy hai người, duy có ông Phan Đình Phùng dám đứng ra hạch lại :
"Tự quân (vua Dục Đức) chưa có lỗi lầm gì, cớ sao lại phế?". Vì việc ấy, ông Phùng bị Thuyết cách tuột hết quan chức, đuổi về quê. Một số sách nói rằng, khi đó ông Thuyết rất giận ông Phan Đình Phùng, muốn giết đi, nhưng lại nghĩ ông Phùng là người can đảm, sau này có thể là người chống Pháp kiên cường.(Sau này khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, quả nhiên ông Phan Đình Phùng dấy nghĩa, là một trong những lá cờ đầu chống Pháp lúc đó).
Có một điều, ông Trần Trọng Kim, trong cuốn
Việt Nam sử lươc của mìnhh, lại đánh giá ông Thuyết rất tồi tệ, ông Trần nói rằng, sau khi đưa vua Hàm Nghi lên Tân Sở, bị Pháp vất ráp gắt gao, ông Thuyết bỏ trốn ra Lai Châu ở với người dân tộc, sau bị truy bách quá mới trốn sang Tàu - chứ không phải ông Thuyết sang tàu cầu viện như các sách sau này vẫn nói. Ông Trần mạt sát ông Thuyết trong sách của mình, nhưng rất đề cao và tỏ ra khâm phục hai con trai ông Thuyết là Tôn Thất Đạm - thủ lĩnh của một cánh nghĩa quân, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, đã thắt cổ tử tiết - và Tôn Thất Thiệp - cận vệ của vua Hàm Nghi, chết trong đêm vua Hàm Nghi bị phản, khi ra sức bảo vệ nhà vua.
Sách của ông Trần xuất bản trong thời nhà Nguyễn đang tại vị (1921), nhưng ông ta tiến bộ ở chỗ, thừa nhận triều Tây Sơn là một triều đại chính thống, vua Quang Trung có công lao lớn với nước nhà - chứ không như các sử gia triều Nguyễn gọi Tây Sơn là "ngụy triều", gọi vua Quang Trung là "giặc Huệ".
Việc ông Thuyết và ông Tường tự phế vua Dục Đức và giam đến chết, hai ông ấy còn giết vua Hiệp Hòa, (và có nhiều người rằng Nguyễn Văn Thành đã đầu độc giết vua Kiến Phúc) sử sách đều ghi, nhưng thật khó hiểu là triều Nguyễn khi đó - và cả đến sau này - vẫn coi Dục Đức, Hiệp Hòa là phế đế, không cho thờ trong Thế Miếu.
Quay trở lại với vua Đục Đức. Ông ta có một số phận hẩm hiu và bất hạnh, lẽ ra rồi cũng chẳng ai nhớ đến ông ta. Cái ngôi mộ sơ sài của ông ấy, chắc cũng như bao ngôi mộ bình thường khác, chẳng có gì đặc biệt. Nhưng rồi sau này ông ta có được cả một khu lăng đường hoàng - có thể nói, lăng Dục Đức được như thế là nhờ ở vua Thành Thái, con trai của ông ta, và vua Duy Tân, cháu nội của ông ta. Lăng mộ,
Long Ân điện,
Tả, Hữu tòng viện,
Tả Hữu phối đường là do vua Thành Thái cho xây, một số công trình phụ trợ sau này do vua Duy Tân cho xây.
Điện Long Ân, nhìn chếch từ phía con đường bên ngoài - giờ đã nhớ ra tên đường là đường Tân Lăng

Cổng vào khu vực các công trình phối thuộc phía sau điện.
__________________
Gác kiếm