Bên trong
Kinh thành, người ta còn đào một con sông đào từ Đông sang Tây, nơi với hệ thống
Hộ Thành Hà và với sông Kẻ Vạn, sông Đông Ba ở hai bên Đông, Tây
Kinh thành. Con sông đào ấy được gọi là
Ngự Hà - sông Ngự, là nơi ngày xưa vua thường lên thuyền ngự để vãn cảnh. Hệ thống
Hộ Thành Hà, ngoài mục đích phòng thủ, cũng là một con đường giao thông thủy và cũng thường được ngự thuyền du ngoạn.
Kinh thành có tất cả 11 cửa, trong đó có 10 cửa chính và 1 cửa phụ để đi qua
Trấn bình đài (đồn Mang Cá), và 2 cửa thủy ở hai đầu
Ngự Hà để dòng nước của con sông này hòa vào hệ thống hào,
Hộ Thành Hà và sông Hương.

Hệ thống các cửa của
Kinh thành Huế -
ảnh sưu tầm Internet
1.
Cửa Chính Bắc (còn gọi
cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành).
2.
Cửa Tây-Bắc (còn gọi
cửa An Hòa, tên làng ở đây).
3.
Cửa Chính Tây.
4.
Cửa Tây-Nam (
cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).
5.
Cửa Chính Nam (còn gọi
cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố - nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long).
6.
Cửa Quảng Đức .
7.
Cửa Thể Nhơn (tức cửa
Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông).
8.
Cửa Đông-Nam (còn gọi
cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa).
9.
Cửa Chính Đông (tức
cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).
10.
Cửa Đông-Bắc (còn có tên
cửa Kẻ Trài)
11.
Trấn Bình Môn (cửa nối với thành phụ ở góc Đông Bắc của
Kinh thành, còn gọi là
thành/đồn Mang Cá).
Hai cửa bằng đường thủy thông
Kinh thành với bên ngoài qua hệ thống
Ngự Hà là:
Đông Thành Thủy Quan (a)
Tây Thành Thủy Quan (b).
__________________
Gác kiếm