Sự kiện xây dựng Đền Thánh
(lược theo sử Đạo)
- Ngày 7/10/1926, Quý vị Khai sáng đạo gửi Tuyên ngôn lập đạo đến Thống đốc nam Kỳ là Le Fol, và được chấp thuận.
- Ngày 19-11-1926, Quý vị tiền khai mượn Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự) tỉnh Tây Ninh, do Hoà Thượng Như Nhãn trụ trì, tổ chức đại lễ “Khai Minh Đại Đạo” trọng thể, kéo dài suốt mấy ngày với hàng vạn tín đồ. (Trong một tài liệu khác trong "Tử sách Đại Đạo", có nói kỹ hơn, đại ý rằng : nhờ Đức Chí Tôn dẫn dụ, mà Hòa thượng Như Nhãn đồng ý cho mượn chùa
Mấy tháng sau, chùa bị đòi lại nên Đức Lý Giáo Tông dạy các vị Cao Quỳnh Cư (Đức Thượng Phẩm), Phạm Công Tắc(Đức Hộ Pháp), Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang,.. đi tìm đất để cất. Chọn mua được hơn 100 mẫu rừng cấm. Về phong thủy, khu rừng này có địa thế rất tốt vì sâu dưới lòng đất có 6 mạch nước tụ lại gọi là Lục Long phò ấn. (Trong các tài liệu của đạo kể về những việc này, đọc thấy rất huyền diệu, mơ hồ. Chuyện cầu cơ xin ý kiến chỉ dạy của Đức Chí Tôn, Đức Lý Giáo Tông, rồi chuyện ý của hai vị này mâu thuẫn với nhau, khiến các vị tiền bối khai đạo nhiều phen lúng túng, không biết theo đường nào)
- Từ tháng 1/1927), Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông đã dạy tất cả chi tiết, kích thước trong họa đồ, nhưng vì tín đồ còn ít và quá nghèo nên một Tòa Thánh tạm được cất lên đơn sơ.
- Năm 1931 đào móng, làm nền, đào hầm Bát Quái Đài. Ngài Thái Thơ Thanh trông coi. (Đọc nhiều tài liệu của Đạo, sau mình mới biết "Thái Thơ Thanh" là một dạng tên đạo của vị này, nói lên rằng, vị ấy thuộc ngành Thái, thuộc Phật. Còn chữ "Thanh" phía sau, thấy có rất nhiều vị chức sắc có chữ ấy ở sau tên, mà vẫn chưa hiểu ý nghĩa lắm)
- Năm 1933 Đức quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt và Nữ Đầu Sư Hương Thanh tiếp nối công trình được thời gian ngắn rồi ngưng lại. (Đức quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) là người thuộc ngành Thượng, thuộc Lão, nên có tài liệu còn gọi Ngài là Thượng Đầu Sư)
- 13-10 Giáp Tuất (1934), Đức Quyền Giáo Tông mất.
- Năm 1935 cất lầu Hiệp Thiên Đài, đúc cột, đổ tấm trần. Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh trông coi.
- Sau khi Đức Quyền Giáo Tông đã đăng tiên, Đức Hộ Pháp được giao nắm quyền chưởng quản cả hai Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài và lập kế hoạch xây cất thành công Tòa Thánh.
Ngài huy động được 500 người làm công quả. Tất cả đều lập nguyện trường chay và không lập gia đình để có đủ tinh khiết trong thời gian công quả xây dựng Đền Thánh. Tiến hành liên tục trong suốt bốn năm rưỡi thì chánh quyền Pháp khủng bố, bắt Đức Hộ Pháp đày đi Madagascar ở Phi Châu.
Đến 30-8-1946, Đức Hộ Pháp mới được trở về. Ngài huy động số người làm công quả trở lại tiếp tục công trình.
- Ngày 27-1-1947, Đức Hộ Pháp làm Lễ Trấn Thần Tòa Thánh
- Ngày 29-1-1947, tổ chức Lễ An vị Quả Càn Khôn
- Tuy nhiên phải 8 năm sau, ngày1-2-1955, nhân ngày Vía Đức Chí Tôn, Đại lễ khánh thành Toà Thánh mới được Đức Hộ Pháp tổ chức vô cùng trọng thể.
Sử liệu của Đạo còn ghi lại một câu chuyện mang đầy tính huyền diệu, đại ý rằng : Trong thời gian Đức Hộ Pháp bị chính quyền thực dân đày đi Madagasca, quân Pháp chiếm đóng Tòa Thánh - lúc đó mới xong phần thô, chưa kịp trang trí, hoàn thiện - bèn vào đóng quân trong Tòa Thánh luôn, chúng đuổi các chức sắc còn lại của Đạo, cũng như các tín đồ và đội thợ công quả ra khỏi khuôn viên Tòa Thánh. Trong thời gian khoảng 3 năm đồn trú tại đây, quan Pháp đã bí mật chôn một trái địa lôi (mìn) chứa 1 tấn thuốc nổ ngay dưới nền Hiệp Thiên Đài, với âm mưu rằng, khi nào cần là kích chi mìn nổ, phá hoại toàn thể Đền Thánh. Việc làm ấy của quân Pháp cự kỳ bí mật, không ai biết. Sau, năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp rút đi, rồi quân Nhật rút đi, Đức Hộ Pháp trở về đất Thánh, tiếp tục kêu gọi các tín đồ hoàn thiện Tòa Thánh, mà cũng không hay biết chuyện trái mìn. Sau này, Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo, năm 1956, Đức Hộ Pháp phải lưu vong sang Nam Vang. Tại đất khách, có người trong đạo đọc thấy trên tờ báo tiếng Pháp Paris-Macht một mẩu tin của viên chỉ huy quân Pháp cuối cùng đồn trú trong Đền Thánh trước khi bị Nhật hất cẳng. Tin đó nói rằng, ông ta biết chỗ chôn trái mìn dưới nền Hiệp Thiên Đài, đúng ra, người Pháp chôn mìn, đề phòng khi quân Nhật đến, khi rút khỏi Đền Thánh sẽ cho kích nổ trái mìn, nhưng người tiền nhiệm của ông ta đồn trú ở đó, khi bàn giao, có nói rõ vị trí trái mìn, nhưng tuyệt không nhắc tới việc kích nổ trái mìn khi rút, nên ông ta không có hành động gì, nay đăng tin, để người Tòa Thánh liên hệ, ông ta sẽ chỉ vị trí mà trục trái mìn lên. Sau Đức Hộ Pháp cũng không quá quan tâm, ngài chỉ nói rằng, không có đấu giây kích hoạt, lâu ngày nó cũng thành đất mà thôi, không cần để tâm. Sự việc này được Tòa Thánh tin là có một sự dẫn dụ huyền bí của các Đấng bề trên
Kích thước Tòa Thánh
Theo Sử Đạo, ban đầu Đức Lý Giáo Tông dạy làm Tòa Thánh với các kích thước :
- Nền cao 1.8 m, rộng 27m, dài 135m
- Hiệp Thiên Đài dài 27m, có lầu chuông, và lầu trống cao 36m
- Cửu Trùng Đài dài 81m, có tháp tròn ở giữa gọi là Nghinh Phong Đài cao 25m
- Bát Quái Đài dài 27m. Tháp cao 30m
Sau, Đức Chí Tôn giáng cơ, dạy rằng, trong lúc khó khăn về tài lực, có thể làm theo thiết kế của Đức Lý Giáo Tông, nhưng thay vì dùng kích thước theo thước tây(mét), có thể dùng thước ta (khoảng 0,452 mét), cho nên thực tế kích thước của Tòa Thánh (lấy tròn số) là :
- Chiều rộng 22m, dài 97.5m, trong đó:
- Hiệp Thiên Đài dài 13.5m
- Cửu Trùng Đài dài 63m
- Bát Quái Đài dài 21m
__________________
Gác kiếm
|