![]() |
28 giờ ở Cố đô Huế
Vùng đất Cố đô - một vùng đất thấm đẫm văn hóa, với những lăn tẩm các vua triều Nguyễn, với Kinh thành xưa, chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén,...
Một thành phố nhỏ yên bình, phố nhỏ rêu phong, soi bóng bên dòng sông Hương thơ mộng, với một nhịp sống chậm rãi khác hẳn Sài Gòn đông đúc náo nhiệt. Trung tuần tháng 6/09, tôi có dịp ghé qua và dừng lại ở Huế. Do thời gian cũng kẹt, nên chỉ ở Huế được vẻn vẹn 28 tiếng, từ 14g30 hôm trước cho đến 18g30 hôm sau, lại đúng vào dịp cả nước gặp đợt nắng nóng, Huế nóng như thiêu. Tuy sau đây là những hình ảnh, những câu chuyện, những truyền thuyết về mảnh đất Cố đô, được sắp theo thứ tự thời gian tôi ở Huế, nhưng không phải viết về hành trình của một chuyến đi, mà về một vùng đất thì đúng hơn, nên để nó nằm trong "Mọi miền đất nước" chứ không ở "Nhật ký các chuyến đi". Vì chỉ có 28 giờ (kể cả thời gian ... ăn,ngủ), nên tôi đi không ngừng, vừa đi vừa chụp - tất nhiên, phần lớn là đi bộ, vì thế, ảnh rất nhiều, post lên sẽ không thể nhanh được. Theo thứ tự thời gian, có các phần : - Part 1 : Chùa Thiên Mụ - Part 2 : Huế lên đèn - Part 3 : Đàn Nam giao - Part 4 : Lăng Minh Mạng - Part 5 : Quần thể lăng Thiệu Trị - Part 6 : Kinh thành Huế - Part 7 : Lăng Dục Đức - Thành Thái - Duy Tân (các bạn nào có những hình ảnh, câu chuyện hoặc truyền thuyết liên quan, cứ góp vào cùng tôi, chỉ cần sao cho đúng lúc) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, sát tả ngạn sông Hương, cách Tp Huế khoảng 6km về phía Tây. Con sông Hương, bắt nguồn từ những khe suối từ vùng núi phía Tây Nam huyện Phú Lộc, chảy ngược về hướng Đông Bắc. Đến đoạn gần đồi Hà Khê, dòng sông mở rộng ra, ôm theo chân đồi, uốn tròn qua phía Nguyệt Biều, tạo ra một quãng rộng mênh mông. Trong khung cảnh ấy, đồi Hà Khê như một hòn đảo nằm trong một cái vịnh, toàn cảnh như một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5846.jpg Sông Hương, khúc chảy ngang chân đồi Hà Khê, nhìn về phía thượng nguồn Người ta cho rằng, đồi Hà Khê chính là một tảng đá hoa cương trong mỏ đá vôi Long Thọ - Lại Bằng, do đó, khi sông Hương chảy tới chân đồi, dòng nước không thể bào mòn khối đá cứng này để băng qua được, nên sông đã bị uốn dòng lượn tròn qua trước mặt đồi Hà Khê để chảy thẳng về trước Kinh thành. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Huyền thoại Thiên Mụ :
Người ta đã nghiên cứu các thư tịch cổ còn sót lại, và biết được rằng, trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, trên đồi Hà Khê đã có một ngôi chùa, là chùa Thiên Mỗ. Thiên Mỗ, chính là Thiên Mụ, tùy vào thời đại, tùy địa phương mà người ta đọc ra hai cách khác nhau.(Trong Hán tự, chữ Mỗ - hoặc Mụ - có 3 nghĩa : Ta, Bà giáo, Bà lão). Thiên Mỗ hay Thiên Mụ, mang ý nghĩa là : Bà lão ở trên trời (xuống). Tuy nhiên, cuốn sách cổ nhất nói về ngôi chùa này, lại không hề ghi một lời nào về cái huyền thoại về bà lão trên trời xuống - dù trong sách đó lại nói rất nhiều đến các thần thoại về các đền chùa ở Hóa châu thời đó - vì thế, người ta mới nghĩ rằng, huyền thoại Thiên Mụ có thể do Nguyễn Hoàng hoặc các mưu sĩ của ông nghĩ ra một cách có chủ đích. Các tài liệu nói về huyền thoại Thiên Mụ, tuy cách nói, lời văn có thể khác nhau đôi chút, nhưng nội dung đều là một. Đại Nam nhất thống chí bộ chính sử thời Nguyễn (1910) chép về huyền thoại này : Chúa thượng đến xã Hà Khê, thấy giữa đồng bằng nổi lên một gò đất cao như hình đầu rồng ngoảnh trông trở lại, phía trước ngó thẳng ra trường giang, phía sau có hồ, cảnh trí rất đẹp, nhân hỏi thăm nhân dân địa phương, họ nói gò này rất linh dị. Tương truyền ngày xưa có người ban đêm thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục ngồi trên gò mà nói rằng "Sau sẽ có vị chân chúa đến sửa dựng lại chùa này, tụ linh khí để giữ vững long mạch cho được bền vững". Nói xong thì biến mất, nhân đó mà núi này được gọi là Thiên Mụ sơn. Chúa thượng cho rằng đất này có linh khí, bèn dựng chùa gọi là Thiên Mụ tự Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An hoàn thành năm 1555 - trước khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa 3 năm - đã nói đến chùa Thiên Mỗ trên đồi Hà Khê. Ngôi chùa ấy có từ bao giờ, do ai dựng, sách không hề nói tới, cũng như không hề có một lời nào về truyền thuyết bà lão áo đỏ. Huyền thoại ấy xuất hiện trong các thư tịch từ đời chúa Nguyễn Phúc Chu (sách Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, năm 1719) Nhưng người ta cũng thừa nhận (qua các tài liệu cổ), việc làm lại ngôi chùa trên đồi Hà Khê và đặt lại tên là Thiên Mụ, chính do Nguyễn Hoàng thực hiện. Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, khi ông mới 34 tuổi, nhưng đến 44 năm sau ông mới dựng lại và viết lại tên chùa, khiến người ta không khỏi nghi ngờ. Rõ ràng, ông ta là người tài năng, biết nhìn xa trông rộng, tại sao một vùng đất sơn triều thủy tụ như Hà Khê mà sau 44 năm, ông ta mới đụng vào? Đương nhiên chưa chắc đã phải thế, Nguyễn Hoàng chắc chắn đã đi ngang dọc khắp đất Thuận Hóa từ khi mới vào trấn thủ để dò xét thế đất, nhưng ông ta tìm ra nơi núi sông giao hội là Hà Khê khi nào, thì không có sử sách nào nói đến. Người ta chỉ có cách lý giải, khi Nguyễn Hoàng dựng lại chùa, viết tên mới cho chùa, là lúc tiềm lực của ông ta đã đủ mạnh (vì đã qua 44 năm ông ta vào Thuận Hóa), và việc dựng lên một huyền thoại ... có lợi cho mình, là một nước cờ hay. Trước ông, và sau ông, cũng có những người sử dụng thủ thuật ấy để chiếm lợi thế trong việc dựng nghiệp (Trước Nguyễn Hoàng, thời khởi nghĩa chống giặc Minh, Nguyễn Trãi bí mật cho quân lấy mỡ, mật quét lên lá mấy chữ : Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, để cho kiến bâu vào đục thành chữ trên lá, để củng cố lòng dân, gieo hoang mang vào lòng địch. Sau Nguyễn Hoàng, thời điểm bắt đầu khởi nghĩa Tây Sơn, Nguyễn Nhạc cũng từng dựng nên màn kịch vị thần trên trời xuống trao gươm báu cho ông ta, trong một đêm huyền ảo trên núi) Đó là các suy đoán của đời sau, còn huyền thoại vẫn là huyền thoại, và, xét cho cùng, Nguyễn Hoàng quả là một vị "chân chúa" như trong huyền thoại nói đến, khi ông đã có những công lao vô cùng to lớn trong việc khai khẩn, mở đất vào phương Nam sau này. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Lịch sử chùa Thiên Mụ và lịch sử xây dựng Kinh thành Phú Xuân (Huế) đã quyện lấy nhau rất mật thiết. Nếu coi "huyền thoại Thiên Mụ" là bản "dự thảo" kế hoạch lâu dài của Nguyễn Hoàng, thì sau này, rõ ràng các chúa Nguyễn đời sau đã thực hiện kế hoạch ấy từng bước khá chặt chẽ.
Từ khi Nguyễn Hoàng dựng lại chùa năm 1601, trải qua các đời chúa, vua Nguyễn đời sau, chùa không phải được xây dựng bởi cái tâm nguyện truyền bá Phật giáo, mà sự xuất hiện của ngôi chùa lại cho thấy cái phần Phật giáo đóng góp vào tinh thần dân tộc. Bản thân Nguyễn Hoàng không phải là người ái mộ đạo Phật từ bi. Ông ta cho dựng lại chùa, chủ yếu nằm trong chí hướng "trấn yểm để thu góp khí thiêng cho cuộc đất Thuận Hóa" - như lời trong huyền thoại Thiên Mụ. Ông ta dựng chùa tại một địa điểm đắc địa về phong thủy, trên ngọn đồi có cấu tạo đặc biệt về sự phối hợp giữa sông núi và phong cảnh, xong rồi để đấy, thờ tự ra sao, ai trụ trì, lễ lượt như thế nào,... sử sách sau đó không hề nói tới. Ba năm liên tiếp sau khi làm lại chùa, tổ chức đại lễ, nhưng 12 năm sau đó, cho tới khi Nguyễn Hoàng mất, không có sách nào chép về việc ông ta có quay lại chùa, hoặc trùng tu chùa hay không (Nên nhớ, khi đó thủ phủ của Nguyễn Hoàng đang còn ở ngoài đất Quảng Trị hiện nay, chứ chưa phải là Huế, tận năm 1613, sau khi nối ngôi chúa, Nguyễn Phúc Nguyên mới dời lỵ sở lần đầu từ Ái Tử vào Trà Bát, và còn thêm vài lần dời đổi, mất gần chín chục năm sau nữa, thủ phủ Đàng Trong mới được đặt tại Huế bây giờ - gần chùa Thiên Mụ) Qua gần 50 năm từ khi Nguyễn Hoàng xây lại chùa, sử sách hầu như không nói tới chùa Thiên Mụ (đời hai vị chúa kế tiếp Nguyễn Hoàng, là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan). Đến đời chúa tiếp theo là Nguyễn Phúc Tần, năm 1665 mới cho tu sửa chùa. Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái (Nguyễn Phúc Trăn) dời đô về Phú Xuân, lúc này công cuộc hoạch định của Nguyễn Hoàng khi xưa coi như đã hoàn thành. Tuy nhiên mấy đời này, các vị chúa Nguyễn thường phải lo việc binh đao với Đàng Ngoài, nên hầu như không quan tâm nhiều đến chùa chiền, đến đời Nguyễn Phúc Chu, ông ta lại là người quan tâm nhiều đến Phật giáo, thời gian ông này tại vị, có nhiều vị hòa thượng Trung Hoa được mời đến các chùa ở Phú Xuân, trong đó có chùa Thiên Mụ. Đến năm 1714, sau gần 20 năm ngồi trên ngôi chúa, Nguyễn Phúc Chu cho tu sửa lại chùa Thiên Mụ , làm mới thành một ngôi chùa to lớn hơn nhiều, và gọi là Thiên Mụ Thiền Tự. Việc sửa chữa, xây dựng lại chùa lần này, còn được ghi lại, và hiện vẫn còn trên tấm bia đá lớn tại chùa, trong đó có một đoạn (lời dịch) lời chúa Nguyễn Phúc Chu : "...Quyên góp ngọc ngà, chẳng tiếc vàng bạc; hễ luật nước đã truyền, công việc xây dựng lâu đài cung điện do quân lính đảm trách chẳng sợ lao nhọc, đến cùng lực có toàn dân giúp sức, cũng chẳng sợ năm tháng kéo dài ..." Cũng theo lời văn bia của chúa Nguyễn Phúc Chu, người ta cho rằng, toàn bộ đỉnh đồi Hà Khê đã được quân lính san thành mặt bằng vào năm 1714 này, và có thể họ đã sửa sang từ bờ sông, bến nước cho đến các tầng bậc xung quanh đồi. Lần tu sửa, làm mới này, đã tạo nên một ngôi chùa lớn tuyệt đẹp với nhiều nhà cửa, điện đài rực rỡ. Từ đó về sau, đến khi chúa Nguyễn Phúc Thuần bôn tẩu vào Nam, chùa không được tu sửa thêm nữa. Thời gian quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, rồi thời nhà Tây Sơn đóng đô tại đây, chủ yếu lo việc binh đao, chùa càng xuống cấp, hoang phế. Năm 1802, Gia Long lên ngôi vua, tuy về cơ bản, ông ta không phải người theo Phật giáo, nhưng Gia Long vẫn lưu ý đến chùa Thiên Mụ, năm 1803 ông ta có làm lễ cầu siêu cho binh sĩ tử trận tại chùa - lúc này gần như đã thành hoang phế, dấu tích huy hoàng thời chúa Nguyễn Phúc Chu xây lại chùa gần như biến mất hết. Tuy nhiên, nhờ vào những may mắn hy hữu, có người còn nghi nhớ được các dấu vết cũ của các điện, đài, năm 1815, Gia Long đã cho dựng lại một lần nữa ngôi chùa Thiên Mụ, dựng lại trên đúng các nền cũ từ thời Nguyễn Phúc Chu năm 1714. Và cũng từ đợt xây lại chùa năm 1815 này, Gia Long đã cho đúc thêm một quả chuông, và tiếng chuông chùa ngày nay, cũng chính là tiếng chuông chùa đã vang lên từ năm 1815 đó. Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi, năm 1844 ông đã cho xây tháp Phước Duyên , và sửa chữa chùa Thiên Mụ rất nhiều. Thực ra, ý tưởng xây tháp là của vua Minh Mạng - một ông vua đã cho xây dựng lên rất nhiều công trình kiến trúc vừa vĩ đại, vừa mỹ thuật trong thời kỳ ông ta trị vì. Tuy nhiên, ông ta không kịp thực hiện việc xây tháp Phước Duyên, thì đã mất. Tự Đức lên ngôi lâu mà chưa có con, ông ta cho rằng đó là do ... trời phạt mình, nên ra lệnh cấm, không được phạm vào mấy chữ Thiên, Địa (năm 1862), vì thế, từ năm ấy, chùa được gọi là Linh Mụ, tuy nhiên sau một thời gian, vua vẫn không có con, nên trong dân chúng, người ta lại gọi chùa là Thiên Mụ, và từ đó đến nay, chùa có hai cái tên vậy. Năm Thành Thái thứ 16 - 1904 - một trận bão rất lớn đi ngang Kinh thành Huế đã làm hư, sụp một số công trình trong khuôn viên chùa, nhưng mãi 2 năm sau, vua Thành Thái mới lệnh tu sửa chùa, và thực tế là đến năm 1907 chùa mới được thực sự tu sửa. Năm 1908, tháp Phước Duyên bị hư hại do sét đánh, nên có được tu bổ lại. Suốt thời kỳ các triều Khải Định, Bảo Đại, chùa không được tu sửa, trở nên hoang phế, nhưng vẫn có tăng chúng ở chùa. Năm 1947, quân Pháp chiếm đóng chùa Thiên Mụ một thời gian, chúng đã phá cửa chùa, chẻ tạng Kinh khắc trên gỗ để dùng làm củi đốt. Năm 1958, chùa được đại trùng tu, do Viện Bảo tồn cổ tích thời đó thực hiện. Tuy những người làm công tác bảo tồn hồi 1958 đã hết sức cố gắng phục dựng lại để giữ vẻ cổ kính của ngôi chùa, nhưng vì nhiều điều kiện khách quan, người ta vẫn phải dùng nhiều xi măng cốt thép thay cho gỗ. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Hiện tại, mặt trước của ngọn đồi Hà Khê đã được sửa sang lại thành các bâc, có kè đá vững chắc, con đường trải nhựa phía trước (mới có từ năm 1958) lượn vòng, ôm lấy một phần tư quả đồi, dòng sông Hương ăn sát vào chân đồi. Ba mặt khuôn viên chùa có xây tường cao hơn 2met như một vòng la thành.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5789.jpg Mặt trước chùa, sườn đồi đã được làm thành các bậc cấp http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5847.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5845.jpg Vòng la thành ba mặt chùa, trên lưng chừng đồi http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5848.jpg Nước sông Hương ăn đến sát chân đồi |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Từ mặt đường nhựa đi lên qua 5 bậc, đến một "chiếu nghỉ", ở đó người ta dựng 4 cột trụ biểu. Một số nhà nghiên cứu về Huế cho rằng những trụ biểu này được xây dựng ở các thời kỳ khác nhau, cụ thể là hai trụ ngoài được xây ở thời Thiệu Trị, hai trụ giữ được xây sau (nhưng chưa tìm được tài liệu nào nói cụ thể thời gian xây các trụ biểu). Người ta đặt gia giả thuyết đó, vì :
Câu đối ở hai trụ ngoài nét chữ to và sắc sảo hơn, lại có 2 tấm biển bằng đồng nhỏ, mỗi tấm khắc hai chữ "Ngự chế" đóng ở trên 2 câu đối. Ở vào thời phong kiến, cái gì của vua cũng phải được đặt ở nơi trang trọng nhất, vì thế, nếu cả 4 trụ xây cùng thời gian, chắc chắc hai câu đối "Ngự chế" của vua phải được đặt ở 2 trụ giữa. 4 vế đối ở 2 trụ biểu ngoài, là của chính vua Thiệu Trị. Hai câu đối ở phía ngoài của 2 trụ (Hán tự) : Tinh thổ phạn cung, phật nhật tăng huy vu tứ đại Ma không bửu tháp, pháp luân thường chuyển vu tam thiên (Nghĩa : Từ cõi trời tịnh độ, ánh sáng của Phật chiếu sáng mãi khắp bốn cõi lớn Tháp quý vút lên không, bánh xe Pháp luôn luôn chuyển trong ba nghìn thế giới) Hai câu đối ở mặt phía trong 2 trụ này là : Khai phá bồ đề tâm nhi hóa thông vạn loại Hoằng thi phương tiện lực dĩ giác ngộ quần sinh (Nghĩa : Mở rộng tâm bồ đề mà vạn loại chúng sinh đều được giáo hóa thông minh Rộng đem sức mạnh của phương tiện để dạy dỗ cho muôn loài biết đạo) Qua khỏi "chiếu nghỉ" có 4 trụ biểu, leo tiếp 14 bậc cấp nữa là đến phần sân ngoài của chùa. Ta thấy đầu tiên ở sân này là một nền vuông, cao chừng nửa met nằm ở giữa sân, nền cỏ mọc xanh non, ngay trước tháp Phước Duyên. Đó là dấu tích nguyên vẹn cái nền của Hương Nguyện đình. Đây là kiến trúc được xây dựng năm 1844 đến 1845 (cùng trong khoảng thời gian tháp Phước Duyên được xây dựng - thời vua Thiệu Trị) - hình như cơn bão năm 1904 đã làm sụp tòa đình này. Đây vốn là chỗ nghỉ mát của vuakhi đến ngắm cảnh chùa, cũng là nơi vua tĩnh tâm trước khi hành lễ ở chùa. Hiên tại, phía sau nền đình, trước tháp có 2 cây hoa sứ cổ, thường nở hoa rất nhiều vào dịp Phật đản hàng năm. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4882.jpg Dấu tích còn nguyên vẹn nền của Hương Nguyện đình |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Từ ngoài nhìn vào, hai bên nền cũ của Hương Nguyện đình là lỗi đi vào chùa, ở hai bên của hai lối đi này có 4 kiến trúc nhỏ, gồm 2 nhà vuông phía trước, hai nhà lục giác phía sau. Đây chính là 2 Bi đình (nhà bia) của vua Thiệu Trị - phía trước, nhà vuông - và 2 nhà lục giác của chúa Nguyễn.
Bi đình của vua Thiệu Trị phía tay phải (từ ngoài nhìn vào) chứa bia đá nói về việc dựng tháp Phước Duyên, thường gọi là Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4881.jpg Bi đình của vua Thiệu Trị, chứa Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi Bi đình phía tay trái, chứa bia đá khắc 8 bài thơ của vua Thiệu Trị làm vào những lúc thăm viếng hoặc vịnh cảnh chùa. (Vua Thiệu Trị tự xếp hạng có 20 thắng cảnh ở chốn Kinh thành, trong đó Chùa Thiên Mụ được ông đặt ở vị trí thứ 14) http://i203.photobucket.com/albums/a...ofIMG_4882.jpg Bi đình của vua Thiệu Trị chứa bia đá khắc thơ vịnh cảnh chùa của nhà vua. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Sau hai Bi đình của vua Thiệu Trị, gần như ngang hàng với tháp Phước Duyên, là hai tòa nhà lục giác, được xây dựng trước hai Bi đình 31 năm, đươi thời vua Gia Long.
Tòa nhà lục giác bên phải (theo hướng từ ngoài đi vào) chứa một tấm bia đá rất lớn của chúa Nguyễn Phúc Chu, nói về việc xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm 1714. Bia là một khối đá cẩm thạch màu đen, dựng trên lưng một con rùa đá, con rùa lại nằm trên một bệ đá được chạm thành hình cái kỷ có 4 chân quỳ. Rùa và bệ được tạc từ nguyên một khối đá cẩm thạch trắng rất lớn (Không hiểu ngày xưa cổ nhân làm thế nào. Chắc làm xong nền nhà, chuyển khối đá gồm bệ và rùa vào, lắp tấm bia lên lưng rùa, rồi mới tiếp tục xây dựng phần trên của Bi đình). Tấm bia đến nay đã trải gần tròn 300 năm - được gọi là Trùng kiến Thuận Hóa Thiên Mụ tự bi. Lời văn khắc trên bia do chúa Nguyễn Phúc Chu thảo ra, nói về việc tu sửa, làm mới chùa Thiên Mụ năm 1714, và miêu tả khung cảnh tuyệt vời của chùa, trong đó có đoạn (dịch) : Từ cửa núi đi vào có điện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng. Đại Hùng Bảo Điện, nhà thuyết pháp, lầu Tàng Kinh. Hai bên là lầu Chuông và lầu Trống, rồi điện Thập Vương, nhà Vân Thủy, nhà ăn, nhà tọa thiền; rồi điện Đại Bi, điện Dược Sư, nhà ở của chư tăng, nhà trọ cho khách, không dưới vài mươi sở. Bên sau là vười Tì Da, trong vườn có nhà Phương trượng và các chỗ cũng không dưới vài chục sở. Tất cả đều sáng chói rực rỡ, khiến cho người xem phải kinh ngạc sợ hãi. Thật là một tòa Quang Minh trong thế giới đầy sắc vàng rực vậy ... thường ngày ngắm cảnh, bước lên đến lầu kinh, bỗng nhiên thấy tâm hồn thư thái rộng mở. Dựa vào lan can lầu để phóng mắt nhìn. Về phương Đông, mặt trời lơ lửng giữa không trung, rọi chiếu cho muôn loài sinh sống; về phương Nam, những đỉnh núi cao đẹp trùng trùng kéo dài cả ngàn dặm, trên đầu đỉnh núi lặng treo thảm mây trắng không cùng tận, cảnh nhiều màu không tả xiết, bao vẻ đẹp ấy nói lên thời văn minh thịnh trị; phương Tây thì có tùng xanh liễu biếc, lá ngăn như cái bình phong che chở cửa thiền; phương Bắc thì nhìn về vùng chính phủ đóng dinh, trong tre xanh đẹp ẩn hiện thấp thoáng những vườn cây xanh tốt của vạn nhà; gió nhẹ thoang thoảng đong đưa trước muôn ngàn cửa ngõ. Cảnh đẹp trước mắt, họa sĩ khó lòng vẽ được ... (Hà Xuân Liêm - Chùa Thiên Mụ - NXB Thuận Hóa) Tiếc là mấy tấm ảnh chụp Rùa cõng bia hỏng hết, sau này sẽ bổ sung lại sau Tòa nhà lục giác bên trái có treo bên trong một cái chuông đồng rất lớn, gọi là Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn. Chuông cao tới gần 2,5m, nặng hơn 2 tấn (3.825 cân xưa). Các hoa văn cùng nghệ thuật đúc đồng thời chúa Nguyên Phúc Chu để lại, tinh xảo và vượt xa so với các chuông đồng những đời sau ông còn để lại. Cùng với bia và rùa đá, Đại Hồng Chung - cũng có tuổi gần tròn 300 năm - là hai trong số các bảo vật của chùa Thiên Mụ. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5800.jpg Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn, đặt trong nhà lục giác, tuổi thọ đến nay đã 295 năm. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Gần như nằm ngang hàng với hai tòa nhà lục giác chứa bia rùa đá và Đại Hồng Chung thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, là tòa bảo tháp Phước Duyên. Mặc dù có sau bia và chuông của chúa Nguyễn Phúc Chu khá lâu (135 năm), nhưng tháp Phước Duyên vẫn có một vị trí đặc biệt trong kiến trúc và lịch sử của chùa Thiên Mụ. Trong dân gian Thuận Hóa sau này, cũng ít người để ý biết tháp có từ bao giờ, thậm chí người ta cũng dần dần quen gọi là tháp Thiên Mụ. Có cả những câu chuyện truyền khẩu mang tính dân gian, nói rằng tháp được xây dựng từ thời Gia Long, và để thờ cái vỏ trấu to bằng cái nón !!!
Thực sự, tháp được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844, xong vào năm 1845, nhưng ý tưởng xây tháp để trấn cho Kinh thành, là của cha ông ta - vua Minh Mạng. Ban đầu, bảo tháp được gọi là Từ Nhân tháp, nhưng khi làm xong, vua Thiệu Trị lại đổi thành Phước Duyên bửu tháp. Mặc dù trong văn bia Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi, vua Thiệu Trị có nói việc xây tháp là để "mở rộng duyên lành, phát nguồn ơn trạch khắp mọi chốn"; "tháp cao thì đạo càng cao, phước rộng thì duyên thêm rộng" - lời dịch từ văn bia (Chùa Thiên Mụ - NXB Thuận Hóa), nhưng thực tế lại chỉ ra rằng, việc xây tháp lại không chủ ý về việc quảng bá đạo Phật. Vua Minh Mạng có ý xây bảo tháp tại quốc tự (chùa Thiên Mụ) là để trấn yểm cho Kinh thành, còn bản thân vua Thiệu Trị lại không phải người tin đạo Phật, như chính ông từng thừa nhận :"Ta vốn chẳng phải kẻ sùng đạo, chỉ vì sửng nguyện của dân nên cho lập chùa mà thôi" - lời trong thơ Ngự chế ở bia chùa Diệu Đế - Huế. Tháp Phước Duyên xây trên một cái nền hình bát giác, tầng dưới lớn, tầng trên thu nhỏ dần. Toàn thân tháp cao khoảng 21m (theo văn bia : tháp cao 5 trượng 3 thước 2 tấc xưa) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5793.jpg Tháp Phước Duyên Từ khi được xây dựng đến náy, tháp được trùng tu nhiều lần. - Năm 1867 (Tự Đức thứ 20) trùng tu lần đầu - Năm 1899 (Thành Thái thứ 11) trùng tu. Hiện còn tấm bia nhỏ ghi lại việc trùng tu này, đặt ngay sau lưng tháp. - Năm 1908 (Duy Tân thứ 2), tháp bị sét đánh, có tu bổ lại - Năm 1959 tháp được đại trùng tu. Tầng dưới cùng của tháp thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, tầng thứ hai thờ đức Ca Diếp Phật, tầng thứ 3 thờ đức Câu Xá Na Mâu Ni Phật, tầng thứ 4 thờ đức Câu Lưu Tôn Phật, tầng thứ 5 thờ đức Tì Xá Phù Phật (một trong bảy đức Phật của thời quá khứ), tầng thứ 6 thờ đức Thi Khí Phật, tầng thứ 7, trên cùng, thờ đức Tỳ Bà Thi Phật. Tương truyền rằng, những pho tượng Phật ở tầng trên cùng được đúc bằng vàng ròng, các đồ cúng lễ đều đúc bằng bạc nén. Vì thế, tầng trên cùng này có một cái khóa riêng, ngày xưa, chìa khóa vào tháp và chìa khóa lên tầng trên cùng do bộ Lễ cất giữ. Khi có việc cần vào tháp, phải có lệnh của Ngự tiền văn phòng trong triều đình, bộ lễ mang bộ chìa khóa tới, cùng với vị tăng lữ chức sắc của chùa Thiên Mụ cùng mở của vào tháp. Những việc ấy là để đề phòng sự mất mát với các bảo vật trong tháp. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ năm 1940 đến 1942, vẫn xảy ra vụ mất cắp tượng Phật bằng vàng ròng tại đây. Điều lạ là, tượng Phật bị mất chính xác vào thời điểm nào, không ai biết được, vì cửa dưới của tháp vẫn nguyên vẹn, chỉ khi người ta phát hiện cửa tầng tháp trên cùng bị mở toang (cũng không ai biết nó bị mở từ khi nào, vì nó nhỏ, lại ở trên cao tít), người ta mới mở cửa tháp lên kiểm tra và phát hiện tượng vàng đã mất rồi - theo sách cũ "Ba trăm năm thăng trầm của chùa Thiên Mụ" . Triều đình Bảo Đại khi đó không thể tìm ra thủ phạm. Các pho tượng còn lại trong tháp đều là tượng đồng, nhưng nhà chùa muốn bảo tồn giá trị lịch sử gần 300 năm của các pho tượng này, nên đã cho đúc các pho tượng bằng thạch cao - theo đúng khuôn dạng của các pho tượng đồng - rồi mạ đồng bên ngoài, để đặt tại tháp, còn các pho tượng cổ đựa đưa vào thờ bên trong điện Bảo Hùng ở trong chùa (việc di chuyển này tiến hành năm 1984) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5790.jpg Tháp Phước Duyên, nhìn từ lối vào chùa bên tay trái. Ngay sau lưng tháp Phước Duyên, trước cửa chính của Nghi Môn (cổng vào chùa) có một tấm bia đá, đó là bia của vua Khải Định dựng vào năm 1919 (năm Khải Định thứ 4), nói sơ lược về chùa Thiên Mụ. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5792.jpg Văn bia của vua Khải Định sau lưng tháp, trước Nghi Môn |
Chùa Thiên Mụ được chia làm hai phần khá rõ rệt. Phần ngoài gồm các bi đình, chuông đồng của chúa Nguyễn, của vu Thiệu Trị, và (dấu tích nền) Hương Nguyện đình, tháp Phước Duyên. Phần trong là các kiến trúc bên trong của Nghi Môn.
Nghi Môn chính là ranh giới của hai phần trong và ngoài. Có một dãy tường thành nằm ngang Nghi Môn, kéo ra tận đến vòng La thành, như một lằn ranh phân chia hai khu vực của chùa. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5804.jpg Nghi Môn Nghi Môn có 3 gian, gian giữa có cơi lầu bên trên. Hai bên vách tường mỗi gian đều có đắp tượng các vị Kim Cang Hộ Pháp rất lớn, qua các pho tượng là cửa vào bên trong sân chùa. Ở gian giữa, nhìn từ bên ngoài vào, phía trái có một cái thang gỗ lim để lên lầu. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5811.jpg Gian giữa của Nghi Môn có cơi lầu bên trên(từ sân trong của chùa nhìn ra) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5806.jpg Tượng Kim Cang Hộ Pháp hai bên vách tường, chiếc thang gỗ lim lên lầu. Bên trên cửa chính của Nghi Môn có tấm biển gỗ lớn đề ba chữ (Hán tự) Linh Mụ tự rất lớn. Nghi Môn được xây dựng từ năm 1815 - khi Gia Long làm lại chùa Thiên Mụ - nhưng tấm biển gỗ khắc tên chùa nói trên, lại được lưu truyền rằng, tận thời Tự Đức(1847 - 1883) mới có, dù sao, nó cũng đã trên 100 năm tuổi. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5807.jpg Tấm biển tên chùa - theo truyền thuyết là được làm từ thời Tự Đức. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Từ phía tháp Phước Duyên nhìn vào, bên phải Nghi Môn là Gác Chuông, được xây cao trên mặt thành. Đây là một kiến trúc được xây dựng năm 1815 dưới thời Gia Long, tuy đến nay đã được nhiều lần sửa chữa, nhưng vẫn được giữa nguyên vị trí và bảo toàn nguyên dạng cổ xưa
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5805.jpg Gác Chuông, nhìn từ tháp Phước Duyên vào. Trong Gác Chuông này là quả chuông đồng được đúc từ thời vua Gia Long. Quả chuông này nhỏ hơn quả chuông của chúa Nguyễn Phúc Chu bên ngoài nhà lục giác nhiều, và nhìn các hoa văn trên chuông cũng có vẻ không được bằng ở chiếc Đại Hồng Chung ngoài tòa nhà lục giác. Ngày xưa giá chuông hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng năm 1976, đế giá chuông đã được làm lại bằng bê tông cốt thép, còn hai thanh giá đứng vẫn là gỗ cũ ngày xưa. Mặc dù Gác Chuông, hay đế giá chuông đã bị (được) tu sửa hoặc thay thế, nhưng tiếng chuông từ quả chuông này thì vẫn ngân lên suốt từ năm 1815 đến nay. Tiến chuông này nghe rất huyền diệu, người ta nói rằng, nó không giống bất cứ tiếng chuông chùa nào khác. Người ta nói rằng, những hôm thời tiết tốt, xuôi theo chiều gió, tận ngoài phá Tam Giang có khi cũng nghe thấy được tiếng chuông chùa Thiên Mụ. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4914.jpg Gác Chuông nhìn từ phía trong Nghi Môn Về tiếng chuông chùa Thiên Mụ, cách thỉnh chuông ngày nay đã khác xưa, hiện nay nhà chùa chỉ thỉnh chuông 2 lần/ngày. Buổi sáng sớm từ 3g30 đến 4g, buổi chiều tối từ 19g đến 19g30 - với mùa mưa - hoặc từ 19g30 đến 20g - với mùa khô. Một điều đặc biệt trong âm thanh của quả chuông Gia Long là, càng ở xa bao nhiêu, tiếng chuông ngân nghe càng huyền diệu bấy nhiêu, hơn 190 năm nay vẫn không thay đổi. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Ở vị trí đối xứng với Gác Chuông qua Nghi Môn, là Gác Trống, đây cũng là kiến trúc cổ từ thời Gia Long, cùng thời với Gác Chuông, thậm chí những lần trùng tu cũng cùng thời điểm với trùng tu Gác Chuông.
Gác Trông hoàn toàn đối xứng với Gác Chuông, lối cầu thang đi lên Gác Chuông nhìn về hướng Tây, thì lối cầu thang đi lên Gác Trống nhìn về hướng Đông. Các chi tiết hai tòa Gác trông y như nhau. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5803.jpg Gác Trống nhìn từ phía tháp Phước Duyên vào. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4911.jpg Nhìn từ phía trong Nghi Môn ra - cầu thang lên Gác Trống cũng đối xứng với cầu thang lên Gác Chuông. Trong Gác Trống có một chiếc trống cổ khá lớn được đặt trên giá trống. Mặt trống đã rách từ lâu, giá trống cũng đã tróc hết sơn. Điểm đặc biệt là, cái tang trống rất lớn (đường kính chỗ giữa thân tới hơn 1,4m) làm bằng gỗ mít, được làm từ 1 thân cây, chứ không ghép, tuy nhiên tang trống - dày 3cm - hiện đã bắt đầu bị nứt rạn. Truyền thuyết còn lưu lại, nói rằng ngày xưa để có đủ da bịt mặt trống, người ta phải cần đến 2 con trâu đực rất to. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4912.jpg Trống cổ từ thời Gia Long đặt trong Gác Trống. Mặt trống đã rách từ lâu, nên cũng không ai còn được nghe tiếng trống này nữa. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Qua khỏi Nghi Môn vào phía trong, ngay sau Gác Chuông và Gác Trống là hai dãy nhà 3 gian, gọi là Lôi Gia - đây cũng là các kiến trúc được xây cất từ năm 1815 dưới thời vua Gia Long. Hai nhà Lôi Gia này ngoảng mặt vào nhau, trong mỗi nhà đều có 3 bức tượng Kim Cang Hộ Pháp rất lớn.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4890.jpg Lôi Gia phía bên Gác Trống http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4894.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4895.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4896.jpg Các bức tượng Kim Cang Hộ Pháp trong các gian của nhà Lôi Gia phía Đông (phía Gác Trống). Các bức tượng trong hai nhà Lôi Gia cũng như các bức tượng ngoài Nghi Môn, đều được đắp bằng đất sét trộn trấu, rơm, và tất cả 12 pho tượng đều có nét mặt khác nhau, rất sinh động, các nếp nhăn của quần áo cũng rất tự nhiên. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Qua cửa Nghi Môn là một khoảng sân rộng lớn với 3 lối đi vào. Hai lối hai bên đi qua phía trước hai dãy Lôi Gia, lối chính giữa băng qua khoảng sân rộng vào tòa điện chính của chùa : Điện Đại Hùng (Đại Hùng Bửu Điện). Mặc dù chùa được sửa chữa và làm lại nhiều lần, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn tin rằng, Điện Đại Hùng hiện nay vẫn nằm đúng chỗ ngày xa xưa nó được dựng lên.
Trong một không gian rộng lớn của chùa, trông Điện Đại Hùng có vẻ thấp, nhưng thực ra nó không thấp, mà vì Điện Đại Hùng là một tòa nhà lớn, nhưng dài quá. Từ Nghi Môn nhìn vào, tòa điện trông cổ kính uy nghiêm, nổi bật lên giữa màu xanh của cây lá xung quanh. (Đại Hùng là một từ để tôn xưng Phật Thích Ca : Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5810.jpg Điện Đại Hùng nhìn từ của Nghi Môn http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5813.jpg Từ thềm điện Đại Hùng nhìn ra Nghi Môn, tháp Phước Duyên nổi bật trên nền trời |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Trên mái điện, có đắp rồng, nhưng những những con rồng này, người ta mới đắp lại hồi đại trùng tu năm 1959. Cả kỹ thuật đắp và mỹ thuật đều bị chê là ... rất kém. Thời đó, ở Huế chắc chắn không phải là thiếu những thợ nề có tay nghề tài năng, nhưng có thể vì nhiều lý do mà các nhà chức trách khi đó đã không thuê họ làm.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4908.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4909.jpg Rồng được đắp trên mái (và bị chê là tính mỹ thuật quá tệ) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4910.jpg Ngày xưa, giữa nóc là cái bình hồ lô, nay đã được thay thế bằng cái Pháp Luân có chữ Phật bên trong. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Đại Hùng Bửu Điện thực ra là hai toàn nhà lớn xây liền nhau, phía trước là tiền đường, phía sau là chính điện.
Ngay khoảng giữa hai lớp mái điện,là các bức tranh gỗ gồm nhiều hình vẽ kể về sự tích Đức Phật - Những bức tranh gỗ này mới được đưa lên khi chùa trùng tu năm 1958. Tiền đường để trống, chỉ ở gian chính giữ có đặt một bức tượng đồng Phật Di Lặc rất lớn. Có nhiều thuyết nói về xuất xứ pho tượng này, trong đó có thuyết nói rằng, nguyên khi xưa, tượng được đặt ở chùa Long Quang, thuộc hoàng gia ngày xưa, năm 1918 (Khải Định thứ 3), chùa Long Quang bị triệt bỏ, nên các tượng Phật phải thỉnh về chùa Thiên Mụ trong khoảng năm đó. Tuy sau này dân làng Xuân Hòa (nơi chùa Long Quang tọa lạc) có dựng lại chùa Long Quang, nhưng tượng Phật DI Lặc vẫn để ở chùa Thiên Mụ chứ không dời về lại. Ngay phía trước tiền đường, từ tượng Phật Di Lặc nhìn ra sân, là một cái lưu đồng lớn, luôn nghi nghút khói nhang http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5843.jpg Lư hương trước tiền đường điện Đại Hùng. Các bức tranh trên gỗ giữa hai mái điện. Tượng đồng Phật Di Lặc ở giân chính giữa của tiền đường Cũng ở gian giữa của tiền đường, ngay bên trên, phía sau tượng Phật Di Lặc là bức hoành phi có bốn chữ Linh Thứu Cao Phong, tương truyền chính là thủ bút của Minh Vương Nguyễ Phúc Chu viết năm 1714. Nghiên cứu kỹ các chi tiết trên bức hoành phi và kết hợp với việc sử sách ghi lại về Minh Vương Nguyễn Phúc Chu là "người hiếu học, chữ tôt, có tài lược văn võ" - lời bản dịch Phủ biên tạp luc của Lê Quý Đôn - các nhà nghiên cứu cho rằng, truyền thuyết ấy rất có thể là đúng. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4901.jpg Bức hoành phi, mà được cho là thủ bút của chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu viết năm 1714. Chính điện ngày xưa là kiểu nhà ba gian, hai chái, nhưng từ sau đợt trùng tu năm 1958, chính điện giờ gồm nguyên hết chiều dài ba gian giữa. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4905.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4906.jpg Hai gian hai bên của chính điện http://i203.photobucket.com/albums/a...wonghong33.jpg Ban thờ ở chính điện - photo by Wonghong, 30/4/2009 |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Sau lưng điện Đại Hùng, ngày xưa (khi Gia Long kiến thiết lại chùa năm 1815) là tòa điện Di Lặc. Với dấu tích nề điện hiện còn lưu dấu, thì điện Di Lặc cũng là một tòa điện rất đồ sộ như điện Đại Hùng. Năm 1904 chù bị cơn bão lớn tràn qua, có thể điện Di Lặc bị sập đổ trong con bão này, cùng với đình Hương Nguyện. Tuy nhiên, người ta đem toàn bộ bộ khung sườn của Hương Nguyện đình về phía sau, dựng tại đúng ở vị trí trung tâm nền điện Di Lặc cũ một tòa điện thờ Quan Công, tức là điện Địa Tạng ngày nay chúng ta thấy.
Hiện tại, khoảng đất trống sau lưng điện Đại Hùng, trước mặt điện Địa Tạng, nhà chùa đã sửa sang lại thành hai mảnh vườn cây ăn quả, và đặt nhiều những chậu cây cảnh. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5815.jpg Điện Địa Tạng ở phía sau lưng điện Đại Hùng, cách một khoảng sân rộng với nhiều cây cảnh. Dấu vết nền cũ của điện Di Lặc rất rộng, điện Địa Tạng nằm lọt trong nền này. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5819.jpg Con đường bên trái điện Đại Hùng đi về phía trong chùa. Nguyên khi xưa, điện này được để thờ Quan Công (từ năm 1907) - một đều khá thường thấy ở các chùa Việt ngày trước, do ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, và cho đến nay, các chùa lớn ở Huế vẫn còn có thờ Quan Công. Theo truyền thuyết, sau khi chết, Quan Công hiển thánh, biết việc âm dương, việc tốt xấu trong tương lai, vì thế mặc dù chùa là nơi thờ Phật, nhưng trong điện thờ Quan Công, người ta còn thờ cả một bộ thẻ xăm, thậm chí sư ở chùa làm luôn việc đoán xăm cho người đến cầu xăm. Người ta lại bày cả những ngựa gỗ, voi gỗ, lọng, các vũ khí thời xưa bằng gỗ,...biến điệ thờ Quan Công mang đầy tính mê tín dị đoan. Chính vì điều thái quá ấy, trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1958, trong dịp đại trùng tu chùa, Hòa thượng Thích Đôn Hậu khi đó đã đưa toàn bộ tượng Quan Công cùng với các ngựa gỗ, lọng,... ra khỏi chùa Thiên Mụ, tòa điện sau khi sửa sang, dùng thờ Địa Tạng. (Theo Phật giáo, Địa tạng chưa phải là Phật, mà mới chỉ là một vị Bồ Tát có một hạnh nguyên to lớn là đã tự thân hành đi vào tất cả các cửa Địa ngục để giải thoát cho những nghiệp chướng đau khổ đang bị Quỷ sứ tra tấn hành hạ.) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Ngay sau lưng điện Địa Tạng là một vườn cây lim và cây đào cao, rồi tiếp đến một tòa điện, là điện Quán Âm. Điện Quán Âm có từ thời vua Gia Long, và cho đến nay, mặc dù đã qua nhiều đợt tu sửa, nhưng không hề bị di chuyển hoặc thay đổi chút nào.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5820.jpg Diện Quán Âm nằm phía sau điện Địa Tạng, cách một vườn lim và cây đào rất cao Đây là một tòa điện nhỏ, dường như được xây dựng nên bằng những đồ (gỗ) tận dụng từ các công trình khác, hiện tại, ngoài mấy bậc tam cấp và hàng chữ, nói chung trông tòa điện này khá "mới". http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5825.jpg Phía sau điện Quán Âm Cách thờ tự ở đây cũng khá đơn giản. Ở điện có pho tượng đồng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen rất lớn - một trong những pho tượng từ thời xưa còn lưu giữ được. Phía sân trước của điện Quán Âm cũng có một lư hương bằng đồng đặt ngoài sân http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5837.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5838.jpg Lư hương trước cửa điện Quán Âm, đường nét chạm trổ cũng khá đẹp. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5834.jpg Từ điện Quán Âm nhìn ra phía trước chùa : điện Quán Âm - điện Địa Tạng (nhỏ, hơi thụt vào) - điện Đại Hùng. Cũng từ cửa nách của điện Quán Âm này (cửa này và của phía bên đối diện được công nhận là cặp cửa hoàn toàn cổ xưa, rất có giá trị), tôi chụp được bức ảnh các (không biết chính xác, cứ tạm gọi) chú tiểu đang đọc sách bên trong : http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5839.jpg |
Bác Tun giải thích Địa Tạng Bồ Tát chưa rõ lắm, Jim giải thích thêm:
Tại Trung Quốc và các nước Đông nam Á, Địa Tạng được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quán Thế Âm, Văn-thù-sư-lợi và Phổ Hiền) chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục. Trước đây vô lượng kiếp, Địa Tạng là một Bà-la-môn và đã thệ nguyện trước một vị Phật thời đó là sẽ quyết tâm tu luyện đạt Phật quả, nhưng sẽ khước từ Phật quả này khi chưa cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi Luân hồi. Vì vậy Địa tạng chính ra đã là một vị Phật nhưng khước từ vì cảm thấy chưa cứu độ được chúng sinh thoát khỏi Luân hồi Ở Việt nam và các nước Đông Nam Á hình dáng Địa Tạng bồ Tát có khác nhau. Ở VN ngoài trong chùa Địa Tạng Bồ Tát còn thường được thấy thờ ở các nghĩa trang với hình dáng từa tựa như nhân vật "Tam Tạng" trong "Tây Du Ký" |
Hihi, về Địa Tạng, mình nói sơ sơ, vì đang nói về chùa, chứ thực ra cũng có tí tài liệu về ngài.
Tại Ấn Độ, ngài có tên là Ksitigarbha. Khi đạo Phật du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc dịch tên ngài thành Ti-tsang Wang P'ou Sa, khi phiên âm sang tiếng Việt, người Việt gọi là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Theo niềm tin của tín đồ Phật giáo Đại Thừa, thì ngài là vị Bồ Tát mang một hạnh nguyện lớn lao là, tự mình đi vào tất cả các cửa Địa ngục để giải thoát cho tất cả những nghiệp chướng đau khổ đang bị hạng quỷ sứ Yen-Lo-Wang (người Việt gọi là Diêm La Vương, tức Yamaràja của Ấn Độ) tra tấn hành hạ. Tại Trung Quốc, ngài Địa Tạng được thờ ở Kieou-Houa-Shan (Cửu Hoa Sơn), tỉnh Ngan Houei (An Huy) phía Nam Trung Quốc. Theo quan niệm phong thủy của người Trung Hoa, Cửu Hoa Sơn biểu thị cho hành Thổ - tiếng Trung đọc là Ti, người Việt đọc là Địa. Người trấn thủ phương vị Địa, được gọi là Địa Tạng Vương, coi về việc có liên quan đến Địa Ngục - tiếng Trung đọc là Ti-yu . Về việc ngài chưa thành Phật, trong Kinh Phật có trích dẫn câu nói của ngài : "Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật" (Các cửa địa ngục chưa trống rỗng, ta thề chưa thành Phật vội) (Sưu tầm linh tinh - không phải trên mạng) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Ngay sau lưng điện Quán Âm là một sân cỏ rất rộng, có một cái hồ chữ nhật nho nhỏ gần phía điện Quán Âm được trồng súng. Ở phía cuối của thảm sân cỏ này, có đặt một số tiểu cảnh bằng đá.
Đi qua khỏi thảm sân cỏ này, đến khu vực mộ tháp của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu - trụ trì chùa Linh Mụ từ năm 1945.Khu vực xung quanh khuôn viên khu mộ được trồng thông xanh ngút mắt. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5821.jpg Sau lưng điện Quán Âm là một thảm sân cỏ rất rộng http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5822.jpg Có một cái hồ nhỏ hình chữa nhật, trồng súng, xa xa là khu mộ tháp cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5827.jpg Một cụm tiểu cảnh ở góc sân cỏ, gần tháp mộ. Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905 - 1992) pháp danh là Trừng Nguyên, hiệu là Đôn Hậu, thế danh là Diệp Trương Thuần, người làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được pháp hiệu là Phước Điền, khai lập chùa Long An (Quảng Trị) và kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu, mất sớm khi Ngài vừa lên 9 tuổi. Năm Ngài lên bảy, một hôm Tổ Tâm Tịnh về quê, đến nhà thăm, thấy Ngài diện mạo khôi ngô bèn tỏ lòng ưu ái, huyền ký cho Ngài con đường xuất thế. Nghe vậy cụ ông vui mừng khôn xiết, đặc biệt lưu tâm đến việc học hành của Ngài, liền mời thầy về nhà dạy riêng, để un đúc tương lai cho Ngài với lòng ước mong được như lời Tổ dạy. Năm 17 tuổi (1922 - Nhâm Tuất), sau mười năm đèn sách, Ngài đã làu thông Nho học. Nhưng tư tưởng về nhơn sanh vũ trụ và phương pháp lập thân xử thế của Lão, Nho đã không làm thỏa mãn được lý tưởng của người thanh niên trí thức ấy khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Phải chăng còn có một chân lý, một lý tưởng cao siêu hơn các nguyên lý Khổng Mạnh mà Ngài đã gặp? Cho đến khi được song thân nhắc lại việc Tổ Tâm Tịnh đã huyền ký ngày xưa, Ngài mới nghĩ đến con đường xuất gia học đạo. Điều này khiến cho chí xuất trần của Ngài trưởng thành. Năm 19 tuổi, ngày 19 tháng 6 năm Quý Hợi (1923) được sự chấp thuận của phụ thân, Ngài vào chùa Tây Thiên đảnh lễ Tổ sư Tâm Tịnh, xin được xuất gia tại đây. Một năm sau, cũng đúng vào ngày vía Quan Âm (ngày 19 tháng 6 năm Giáp Tý - 1924), nhờ học hạnh kiêm toàn và chí nguyện xứng đáng, Ngài được đặc cách cho thọ tam đàn Cụ Túc tại Giới đàn chùa Từ Hiếu, do chính Bổn sư làm đàn đầu. Thọ giới được hai năm thì Bổn sư viên tịch (1926), Ngài bèn đến chùa Hồng Khê cầu pháp với sư huynh là Hòa thượng Giác Tiên. Năm 1927, Ngài được 22 tuổi, trường Phật Học Thập Tháp tại tỉnh Bình Định khai mở, do Tổ Phước Huệ - bậc danh Tăng nổi tiếng làm Giáo thọ, Ngài cùng một số vị khác như Hòa thượng Chánh Huy, Chánh Thống, Viên Quang vào đây tham học. Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, trường Trung học, Đại học Phật giáo được mở tại Tây Thiên, Tổ Phước Huệ được cung thỉnh từ Bình Định ra làm giáo thọ. Với tinh thần hiếu học cầu tiến không ngừng, Ngài tiếp tục theo học chương trình Đại học tại đây và được bầu làm Thủ chúng cả hai trường. Ngài cũng làm Giáo thọ cho Phật học đường Báo Quốc và Ni viện Diệu Đức - Huế. Ngay từ lúc còn ngồi ghế Đại học tại Tây Thiên, Ngài được mời làm Giảng sư của Hội An Nam Phật Học. Năm 1936, tốt nghiệp Đại học Phật giáo, với tuổi 32, Ngài được mời làm Giáo sư cho Phật học đường Báo Quốc và Luật sư cho Sơn môn Thừa Thiên, từ đó Ngài đã trở thành một hạt nhân tích cực của phong trào chấn hưng Phật giáo, và là giảng sư nòng cốt, tiền phong của Hội Việt Nam Phật Học. Ngài đã đi giảng dạy khắp các tỉnh miền Trung, nhất là tại Đà Nẵng và Quảng Nam. Năm 1940 và 1942, Ngài hai lần sang thuyết giảng ở một số tỉnh có đông Việt kiều tại Lào, đàm đạo với vua Sãi và tham lễ tại một số nơi ở Vương quốc Phật giáo này. Năm 1945, Ngài thay thế Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật Học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, Ngài nhận chức trụ trì Quốc Tự Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, Ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên hiệp Trung bộ. Năm 1947, cùng chung số phận với hàng loạt các cơ sở Phật giáo cả nước, chùa Linh Mụ cũng bị Pháp đánh phá và chiếm đóng. Ngài bị Pháp bắt, tra tấn và sau cùng bắt tự đào huyệt chôn mình và suýt bị bắn chết, may nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) can thiệp mới được thả. Năm 1948, Ngài làm cố vấn đạo hạnh hội Phật học Trung phần và Tuyên luật sư Đại giới đàn Báo Quốc - Huế. Năm 1949, Ngài thay cố Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định giữ chức Chánh hội trưởng Tổng Trị sự hội Phật học Trung phần. Năm 1951, Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, sau đó được Sơn môn Tăng già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952, Giáo Hội Tăng Già toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, Ngài được suy cử làm Giám luật. Năm 1956, Ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được chuyển thành Liên Hoa nguyệt san cũng do chính Ngài làm chủ nhiệm. Năm 1963, Ngài tham gia đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đêm pháp nạn 20 tháng 8 năm 1963, Ngài bị bắt tại chùa Diệu Đế và bị đưa đi giam giữ. Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được cử làm Chánh Đại Diện miền Vạn Hạnh. Năm 1965, Ngài được cung thỉnh làm Yết ma A Xà Lê Đại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế. Từ năm 1968, Ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Ngài vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài lại càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Đạo ích Đời. - Tháng 1/1968: Phó Chủ tịch Liên minh các lực lượng Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam. Tháng 6/1968: Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. - Năm 1970, đi tham quan văn hóa, tôn giáo ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Đại hội thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình. - Năm 1975, miền Nam được giải phóng, Ngài trở về chùa cũ (Linh Mụ) và sau đó được mời làm cố vấn cho Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. - Năm 1976, Ngài đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cũng chính trong năm này, Ngài được mời giữ chức Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. - Từ năm 1976 đến 1986, liên tục trong mười năm liền, Ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở Huế tại các chùa Linh Mụ, Báo Quốc và Linh Quang. Năm 1977, Đại hội kỳ VII Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang. Ngài được suy cử vào Hội đồng Trưởng Lão của Giáo Hội và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng Thống. Năm 1979, đức Đệ nhị Tăng Thống - Hòa thượng Thích Giác Nhiên - viên tịch, Đại hội kỳ VIII chưa tổ chức được, Hội đồng Lưỡng Viện bèn cung thỉnh Ngài kiêm chức vụ Xử lý Viện Tăng Thống. Năm 1981, Đại hội Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội, đã suy cử Ngài vào Hội đồng Chứng minh với chức vụ Đệ Nhứt Phó Pháp Chủ kiêm Giám luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Năm 1977, 1981 và 1983, ba lần Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới đàn tại chùa Báo quốc và Trúc Lâm - Huế. Ở tuổi ngoài bát tuần, sức khỏe của Ngài đã giảm sút rất nhiều, thân ngũ uẩn như chiếc xe cũ, đèn dầu cạn, nhân duyên hội họp đã mãn. Hóa duyên đã tròn, Hòa thượng an nhiên thu thần hội nhập vào cảnh giới an lạc tịch tĩnh vào ngày 23/4/1992 (nhằm ngày 21/3 Nhâm Thân) tại Tổ đình Linh Mụ thành phố Huế, trụ thế 88 năm, trải qua 68 mùa An cư kiết hạ... Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu - nguồn PhatViet.net http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5826.jpg Sân rộng trước khu tháp http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5829.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5830.jpg Mộ tháp Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu - trụ trì chùa Thiên Mụ từ 1945.Xung quanh là rừng thông xanh ngút. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Từ ngoài Nghi Môn đi vào chùa theo lối bên tay trái, qua khỏi điện Đại Hùng, ở tầm ngang với điện Địa Tạng, cũng về phía tay trái, là một tòa nhà dài, nơi sinh hoạt của các vị tăng lữ trong chùa.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5816.jpg Tòa nhà nằm dọc theo hướng đi vào chùa, bên tay trái, ngang chỗ điện Địa Tạng. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5818.jpg Trai đường. Từ đây, có một lối nhỏ đi xuôi về phía tháp mộ cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, con đường nhỏ lát bê tông chạy dưới hàng cây mát rượi. Đoạn trên hình như là cây lim - trông giống mấy cây sau điện Địa Tạng. Đến khoảng giữa thảm sân cổ sau điện Quán Âm, con đường nhỏ bẻ ra gặp đường lớn từ ngoài chùa đi vào, cũng từ chỗ đó là rừng thông. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5823.jpg Con đường nhỏ dưới tán cây. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5824.jpg Bộ bàn ghế đá dưới tán thông xanh mướt. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 1 : Chùa Thiên Mụ
Cũng trong huyền thoại Thiên Mụ ngày xưa,ngoài việc làm chùa, bà lão trong huyền thoại còn nói đến việc cầu linh khí trở về - ý nói đến việc san bằng vết trấn yểm của Cao Biền thuở trước. Không biết về việc đó, khi xưa Nguyễn Hoàng đã làm như thế nào, nhưng đến nay có một huyền thoại về phế tích con rùa ở chùa Thiên Mụ.
Hiện nay ở ngoài vòng thành của chùa có một cái hồ nhỏ, được gọi là Bình hồ. Trên bờ phía Tây Nam của hồ, góc Tây của chùa Thiên Mụ, có một phế tích có hình dạng của một con rùa. Có ba thuyết chính về phế tích con rùa này đều liên quan đến việc trấn yểm long mạch của đồi Hà Khê. Thuyết thứ nhất : kể đại ý rằng, trên bờ của Bình hồ có một tảng đá lớn trông giống hệt một con rùa. Tương truyền khi chùa xây xong, có con rùa từ sông trước bò ngang qua chùa để ra phía sau, nhưng gần tới hồ thì trời nổi cơn giông tố, sét đánh chết con rùa, và biến con vật thành phiến đá. Người ta giải thích rằng, khi Nguyễn Hoàng làm xong chùa, tức là có động đến việc hoàn nguyên long mạch, nên phù phép trấn yểm xưa của Cao Biền hết linh, con rùa yểm phải trồi lên bò qua chùa sang hồ, để rồi bị trời đánh chêt :D - một kiểu lý giải rất ... dân gian, vì các tài liệu sau này nói rằng, phế tích hình con rùa ấy không phải bằng đá, mà được xây bằng vôi gạch. Thuyết thứ hai : thuyết này cho rằng cái hồ ở sau chùa Thiên Mụ là do người địa phương đào để yểm lại, ngoài việc đào hồ, người ta còn đắp bằng vôi gạch bên cạnh hồ một con Rùa Mốc lớn. Đắp Rùa mốc, vì ngày xưa, người ta dùng từ "Rùa mốc" để ám chỉ những việc không đáng sợ, không đáng lo ngại. Thuyết này có một số điểm hợp lý, nói đúng về thực tiễn phế tích, lại nói lên được tinh thần phản kháng mạnh mẽ của dân ta chống lại sự phá hoại về mặt tâm linh của kẻ địch. Tuy nhiên nó cũng có những điểm bất hợp lý, vì Rùa vốn là một loài linh vật từ xưa, khi An Dương Vương dựng nước, rồi sau đến Lê Lợi đuổi giặc Minh, cũng có truyền thuyết về Rùa Vàng cho mượn gươm báu. Vì thế, nếu theo thuyết này, tại sao người xưa lại đắp tượng con rùa vĩ đại đến thế - nếu với ý nghĩa khinh thường, kiểu "đồ rùa mốc"? Thuyết thư ba : nghe có vẻ ít màu sắc huyền thoại nhất, người ta nói rằng, Con rùa này do nhà chùa đắp nên, vì ngày xưa trong chùa có 2 con rùa thường xuống uống nước dưới Bình hồ. Một hôm, chỉ có 1 con về lại chùa, người ta đi tìm và thấy nó nằm chết bên hồ. Nhà chùa bèn chôn con rùa ngay chỗ đó, và đắp lên trên một tượng rùa lớn, ghi dấu lại nơi con vật quý đã chết. Mầy mò bao nhiêu tài liệu linh tinh về chùa Thiên Mụ, biết được có cái phế tích rùa này, nhưng lúc đến Huế thì lại không đến xem được. Một phần vì lúc quay lên đến khu nhà ở của các tăng lữ (đúng phía Tây chùa) để tìm cách ra ngoài vòng thành, thì trời bỗng đổ mưa - trong dịp cả nước nóng như rang, hơn nữa, lúc ấy tự dưng bị chuột rút (vọp bẻ), không tài nào quốc bộ được nữa, ngồi núp mưa xong thì trời đã sập tối, đành về, để lần sau ghé chùa,sẽ lại tìm xem sau vậy. Kết thúc Part 1 trong 28 giờ ở Cố đô Huế |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
Cuộc đi bộ ở chùa Thiên Mụ buộc phải kết thúc đột ngột vì cơn mưa lớn đổ xuống, và cái cẳng bị chuột rút. Cũng lạ, trong vòng hơn 10 ngày trước đó, khắp nơi nóng kinh khủng, Huế cũng không phải ngoại lệ, hai, ba hôm trước nhiệt độ cũng lên lới 36 độ C, và ngay ngày hôm ấy, khi tôi đặt chân đến Huế vào đầu giờ chiều, cũng nắng đến hoa cả mắt. Nhưng rồi cuối chiều thì mưa tới, tầm tã. Part 1 kết thúc sau 2 giờ đồng hồ.
Mưa dứt ở chùa Thiên Mụ, lên xe ôm quay về khách sạn (cũng chính là cái nhà khách Quân đội mà đoàn đi tour 30/4/2009 ghé ở). Nhưng mới chạy ngang Kinh thành Huế, thì lại bắt đầu mưa trở lại, đành tấp luôn vào núp mưa dưới Ngọ Môn. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5852.jpg Mưa lại bắt đầu trở lại. Dường như vừa qua đợt nắng nóng kéo dài, nên mọi người khá vui khi có mưa xuống. Chỉ có một kẻ cảm thấy xui xẻo. Nhưng cũng trong cái xui rủi, cũng có cái may. Đứng núp mưa ở ngay dưới cổng Ngọ Môn, y chộp được cầu vồng phía trên Kỳ đài Huế. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5856.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5857.jpg Đây là những hình ảnh ... chuyển tiếp giữa buổi chiều với buổi đêm. Buổi chiều là lung linh cầu vồng trên Kỳ đài Huế, ban đêm là lung linh cấu Tràng Tiền trên sông Hương. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
Ở một thành phố lạ một mình, nếu nằm không thì thật là phí. (Đối với tôi, đến lúc ấy Huế vẫn là một thành phố lạ, bởi mặc dù đã đi qua Huế khá nhiều lần, nhưng đây mới là lần thứ hai dừng lại Huế, lần đầu là ở tour 30/4/09 vừa qua, trong khi Đà nẵng thì không thể nói là lạ được). Vì thế, mặc dù lúc ở chùa Thiên Mụ bị chuột rút, nhưng sau khi về tắm rửa và nạp ... nước lọc, lại lên đường ra phố. Bắt buộc phải ra phố, vừa là đi xem Huế đêm, vừa là vì chưa măm gì, mà cũng đã gần 19g30 - không phải là ... quá sớm cho bữa chiều nữa.
Đúng đêm bế mạc Festival các Làng nghề Huế - 2009, lại đúng vào tối chủ nhật. Đường phố đầy màu sắc. Lại được thêm cơn mưa mát mẻ ban chiều, nên khi bước ra đường, thấy người đông quá. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5885.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5884.jpg Đám rước lân, rồng với chiêng trống ầm ầm ở góc ngã tư Hùng Vương - Lê Lợi, ngay đầu cầu Tràng Tiền Vì thấy đám rước lân, rồng đèn đuốc còn dài trên đường Lê Lợi, phía thượng nguồn sông Hương, nên trong lúc bị xô đẩy theo dòng người (đang ùn lại vì bị công an chặn đường, ưu tiên cho đám rước Bế mạc Festival), cứ bị "trôi" dần ra phía bờ sông. Đang tìm cách chen trở lại thì thấy cầu Tràng Tiền rực rỡ trong ánh đèn màu. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5888.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5891.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5893.jpg Tiện thể, bắn luôn mấy phát, vì nghe người ta nói rằng, hôm nay có Festival nên mới chiếu đèn màu. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
Đi tới đi lui, nhưng người đông quá, chụp ảnh bị nhòe, tìm cách chen lại lên ngã tư được, thì đám rước đã qua cầu gần hết.
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5883.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5886.jpg Còn cái đuôi của đám rước. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5887.jpg Mấy cái đầu rồng cuối cùng đang chạy theo đoàn phía trước. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5894.jpg Người đã vãn, chân lại bắt đầu mỏi mỏi, nên lại quay xuống bờ sông rình màu để chụp cầu. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
Sau khi bắt đầu thấy chân đau trở lại, mới chợt nhớ là ... đói quá, đã gần 20g30 rồi mà chưa măm gì. Gọi cho ku Tráng (đang ở Đà Nẵng) để hỏi chỗ ăn, ku chỉ cho cuốc bộ tóe mồ hôi, đến nơi người ta đã dọn hàng, gọi tiếp, nghe hướng dẫn ... nhức cả đầu, nên ngoắc phát xích lô cho ... lành (hy vọng thế). Một cuốc xích lô vòng khắp Huế (tất nhiên với người chưa thạo đường Huế như mình, thì làm sao biết thế nào là đủ một vòng Huế, nhất là ban đêm nữa) chỉ đòi có 50.000đ, thế là Ok.
Đầu tiên là yêu cầu chở đến chỗ ăn đã, hehe. Vì đói và mệt - do vừa cuốc bộ tìm quán ăn hụt - nên chỉ ngồi ngắm Huế đêm thôi, đúng dịp lễ hội, nên phố xá cũng chăng đèn kết hoa rực rỡ. Phố xá ở Huế có vẻ giống với ở hà nội cách đấy mười mấy năm, cũng nhỏ, hẹp, nhiều cây và các cửa hàng lấn ra vỉa hè. Ăn xong lại tiếp tục XếloTour, nhưng chụp ảnh đêm khi xe đang cahyj lóc xóc thật không dễ ăn, vì ... tất cả ảnh đều tèo hết. Chỉ còn một lô ảnh chụp cầu Tràng Tiền từ trên cầu Phú Xuân là con nhìn tạm tạm (vì thế Part 2 toàn ảnh cầu Tràng Tiền đêm) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5905.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5909.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5912.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5913.jpg Các đèn màu được cho chạy đuổi nhau, nên cây cầu đổi màu liên tục. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5914.jpg
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5918.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5924.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5925.jpg Lúc này còn đang sơm, phía bờ Nam sông Hương còn bật các cụm đèn lớn. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
Xich lô qua cầu Phú Xuân, sang bờ Bắc sông Hương.
Bờ Bắc sông Hương vốn là phần đất có Kinh thành Huế xưa, có thể coi sông Hương chia Huế ra làm 2 phần : phía bờ Bắc là phần thành phố cổ, cũ; phía bờ Nam là thành phố mới với các con đường dài, rộng và các cao ốc đang xuất hiện ngày càng nhiều. Tất cả các tấm ảnh chụp phố ở bờ Bắc sông Hương, cũng tèo sạch :)), chỉ còn mấy cái chụp cổng Ngọ Môn là nhìn còn đỡ đỡ. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5930.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5932.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5933.jpg Ngọ Môn về đêm http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5926.jpg 4 khẩu thần công (hình như cái cửa gần đó là Cửa Ngăn - nhờ ku Tráng hiệu chỉnh cho đúng nhé) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 2 : Huế đêm - lung linh cầu Tràng Tiền
Lúc qya lại bờ Nam sông Hương cũng đã khuya, gần nửa đêm, cũng qua cầu Phú Xuân, để ngắm lại cầu Tràng Tiền lần nữa. Đêm về khuya, đèn được tắt bớt, xung quanh cũng đã bớt hẳn ánh đèn trên con đường Lê Lợi. Lại thấy cầu Tràng Tiền lung linh theo một ... cách khác, nên lại nhảy xuống chụp mấy chụp :
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5935.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5937.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5941.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5942.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5945.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5946.jpg Cầu Tràng Tiền lúc nửa đêm. Đúng là "Lung linh cầu Tràng Tiền", toàn chụp được có mỗi cây cầu, những tấm ảnh đó là kết thúc của Part 2, vì ngay sau đó, tay Xích lô bắt đầu có những đề nghị ... không phù hợp, nên phải bảo y đưa trở lại Trần Cao Vân, ngồi uống thêm chai bia cho dễ ngủ, hehe. Ở Huế đã hơn 10 tiếng. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 3 : Đàn Nam Giao - lễ Tế Nam Giao
Sau một giấc ngủ ... thẳng cẳng :D, y hẹn với tay xe ôm, 5g30 đã lò dò gọi Lễ tân để trả phòng (vì biết sẽ đi một mạch đến lúc rời khỏi Huế). Nhưng vác theo một cái balo to đùng mà cuốc bộ đi mấy khu lăng và Đại Nội, thì cũng chết, nên tuy trả phòng, nhưng lại tiếp tục gửi đồ ở Lễ tân.
Có một điều thú vị, chị Lễ tân cứ nhìn một cách ... soi mói, và hỏi : - Em đã đến nghỉ ở đây lần nào chưa? - Dạ, em ở đây hồi 30/4 vừa rồi. - Ah - chị ta la lên - mặt đầy râu, đi với đám moto hả? Thế là : "Cứ gửi vô tư đi em, lấy vé đi Hà Nội chưa, hay để chị đặt vé cho luôn, chiều vòng qua lấy đồ rồi nó đến đón ở đây". Sau vài phút điện thoại, thế là có vé, xe chạy 18g. Càng yên tâm vác máy đi chơi. 6g sáng, trời đã thấy oi bức nóng nực. Tay xe ôm tận lúc đó mới ló ra, cười : - Hôm qua anh giai cuốc bộ đến mức chuột rút, mà sáng dậy sớm thế? Đầu tiên, lo thiếu thời gian, tính đi lăng ngay, nhưng đường tới cụm lăng lại đi ngang qua đàn Nam Giao, thế là ... tạt ngang. Tài liệu về đàn Nam Giao thì nhiều, nhưng lần này, tôi lược trích tài liệu viết về đàn Nam Giao và lễ tế Nam Giao dưới con mắt của một người phương Tây : Léopold Cadière - một người Pháp đã gần như sống và làm việc, nghiên cứu cả đời ở Việt Nam (63 năm), và đã chết ở Huế năm 1955. Cảm thức về quyền năng tối thượng của Trời đã ấn dấu sâu xa trong tâm thức tôn giáo người Việt. ngôn ngữ bình dân không thiếu những dẫn chứng bày tỏ niềm tin vào quyền lực của Trời : người ta viện dẫn Trời như một nhân chứng, kêu đến Trời như một quan án, cầu Trời như một vị cứu tinh. Trời thấu suốt mọi chuyện, Trời phán xét và trừng phạt, Trời nhân từ, Trời yêu thương, Trời tác sinh, Trời bảo vệ : Trời làm chủ vận mạng nhân sinh. Tuy vậy, các biểu lộ thờ Trời lại khá hiếm hoi. Nhiều nơi thì ý niệm về Trời bao la, thông suốt, toàn năng lại được ẩn dấu và thu nhỏ trong những hình thái mông lung, mơ hồ của chư thần lão đạo, tuy vậy lại được thường xuyên thờ cúng. Đôi khi, vào lúc tuyệt vọng, khi con người kiệt lực mà thần thánh cũng vô phương thì tâm hồn người Việt lại hướng về Trời bằng những động thái tín ngưỡng tuyệt đẹp bởi vì vô cùng đơn giản. Có lẽ việ tế Trời được tập trung nhiều nhất trong việc Tế Nam Giao. Trong nghi lễ này, việc tế tự mang sắc thái hoành tráng uy nghi tương xứng với sự cao cả của Đấng tôn thờ, thể hiện sự tinh tuyền của niềm tin vào Trời, phản ánh những tâm tình sâu lắng mà Trời khơi dậy trong tâm hồn họ. Hoàng đế được xem như vị thừa ủy, đại diện của toàn dân : nhân danh hết thảy thần dân, ông ta phủ phục, dâng tế, tạ ơn và cầu khẩn. Nếu như niềm tin vào quyền năng cao cả của Trời là cao quý nhất, thuần khiết nhất của toàn bộ tín ngưỡng người Việt, thì việc Tế Nam Giao thể hiện một cách trang trọng tín ngưỡng ấy cũng là hành vi cao cả nhất của việc sùng bái tôn thờ của họ. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 3 : Đàn Nam Giao - lễ Tế Nam Giao
Các đàn tế Trời ngày xưa được gọi là đàn Nam Giao (cái này hình như dùng theo từ của người Trung Hoa, việc xuất xứ tên gọi này và các vấn đề xung quanh nó thực ra rất dài dòng và ... lằng nhằng. Tài liệu thì cũng có, nhưng mà đi sâu vào mấy vấn đề đó là việc của các nhà nghiên cứu văn hóa). Đàn Nam Giao được lập nên để các vua chúa phong kiến ngày xưa tế Trời. Ở Việt Nam hiện còn các di tích :
- Đàn Nam Giao Huế (triều Nguyễn) - Đàn Nam Giao SƠn Tây - Đàn Nam Giao nhà Hồ (ở Thanh Hóa) - Gần đây người ta còn phát hiện dấu tích Đàn Nam Giao triều Tây Sơn ở Bình Định. Trong số đó, Đàn Nam Giao Huế là di tích hiện còn nguyên vẹn nhất. Đàn Nam Giao (Huế) đầu tiên được xây dựng vào năm 1803, đặt tại làng An Ninh, thời vua Gia Long. Năm 1806, đàn được dời về phía nam của kinh thành Huế, trên một quả đồi lớn thuộc làng Dương Xuân, nay thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. http://i203.photobucket.com/albums/a...nhnNamGiao.jpg Không ảnh Đàn Nam Giao - sưu tầm Internet Đàn tế được xây 3 tầng chồng lên nhau, tượng trưng cho Thiên - Địa - Nhân. - Tầng dưới cùng: hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ, tượng trưng cho con người. Có kích thước 165x165 m, nền cao 0,85 m. - Tầng giữa : hình vuông – Phương Đàn – tượng trưng cho Đất, lan can quét vôi màu vàng.Kích thước 83×83 m, cao 1 m. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc. - Tầng trên cùng: hình tròn – Viên Đàn – tượng trưng cho Trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh. Đường kính 40,5 m cao 2,8 m. Trên nền Viên Đàn có lát những phiến đá Thanh được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc. Cả ba tầng đều trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc. Xung quanh ba tầng đàn này còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới trước khi tế vài ngày), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng tế), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5947.jpg Đàn Nam Giao nhìn từ cổng vào chính hiện nay. (Về nguyên tắc phong thủy ngày xưa, cổng chính của đàn tế Nam Giao phải quay về hướng Nam, nhưng cổng chính hiện tại của đàn lại quay về hướng Bắc, và ở hướng này, tôi không thấy tấm bình phong như ở 3 cổng kia - không hiểu nó bị phá đi hay là sao, cũng không hiểu ngày trước người ta tiến vào hành lễ tại đàn tế bằng lối hiện tại, hay đi vòng xuống cửa phía Nam để vào. Vì đứng trên Viên Đàn nhìn ra cổng phía Nam, thấy rừng thông quây kín đàn tế, trong khi một số bức ảnh tư liệu ngày xưa cho thấy sân hành lễ phía dưới đất có lát gạch - giống như sân ở lối vào cửa bắc hiện tại) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5948.jpg Ba tầng đàn tế Nam Giao nhìn từ cổng vào. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5950.jpg Phương Đàn và Viên Đàn - nhìn từ tầng dưới cùng. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5951.jpg Viên Đàn - nhìn từ Phương Đàn |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 3 : Đàn Nam Giao - lễ Tế Nam Giao
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5952.jpg
Trên Viên Đàn nhìn ra cửa phía Bắc (cửa chính hiện tại) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5953.jpg Cửa phía Tây (bức bình phong mờ mờ) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5954.jpg Cửa phía Nam (giờ nhìn lại mấy tấm này, thấy các lối lên đàn tế đều lát gạch cả, ở lối lên đàn từ phía Nam, trên nền Phương Đàn còn thấy 4 lỗ, chắc để chôn cột dựng lều) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5955.jpg Cửa phía Đông. Bóng núi xa xa, chính là núi Ngự Bình. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/Traicung.jpg Trai cung - ảnh sưu tâm Internet. (tài liệu nói Trai cung nằm ở phía Tây Nam đàn tế - nhưng lúc leo lên Viên Đàn, chả thấy gì, có thể do vướng rừng thông) Khuôn viên xung quanh đàn tế có rất nhiều cây thông mọc như rừng, xanh ngắt. Tương truyền, ngày xưa vua Minh Mạng trong một lần tế lễ Nam Giao, đã tự tay trồng 1 cây thông, và lệnh cho các quan cũng phải trồng cây thông vào đó mỗi dịp lễ tế. Sau này (ngày nay) người ta vẫn trồng thêm bổ sung và chăm sóc chu đáo. |
Thời kỳ đầu triều Nguyễn, mỗi năm một lần, triều đình cho tổ chức lễ Tế Nam Giao vào tháng 2 âm lịch. Từ năm 1890 trở về sau, lại quy định cứ ba năm mới tổ chức một lần.
Vào ngày đầu của lễ tế, triều đình tổ chức một đoàn ngự đạo cho lễ tế với nhiều thành phần như hoàng thân quốc thích, quan lại, binh lính đầy đủ tất cả các loại phẩm phục, áo mão, nghi trượng, cờ quạt, tàn lọng… Đoàn ngự đạo chia thành 3 tốp: tiền đạo, trung đạo và hậu đạo với số lượng thành phần được huy động khá đông từ khoảng trên 1 ngàddeeens gần 5 ngàn người tùy theo mỗi giai đoạn. Những lần tế giao cuối thời Nguyễn số lượng và thành phần tham gia lễ tế giảm lược rất nhiều. Vào 8 giờ sáng, từ Hoàng Thành, nhà vua ngồi ngự liễn theo đoàn ngự đạo lên Nam Giao để trai giới chuẩn bị cho cuộc tế. Tại Trai Cung, chỗ vua ngự có đặt một tượng đồng nhỏ gọi là tượng đồng nhân, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Nhà vua ngồi đối diện với pho tượng đồng nhân như đối diện với chính mình, bản thân nhà vua luôn phải giữ những suy nghĩ thanh tịnh, lòng thành kính luôn hướng về trời đất. Ngày hôm sau, lễ tế sẽ chính thức diễn ra từ 2 giờ sáng, vua rời Trai Cung, đến đàn làm chủ tế. Lễ tế ở Viên Đàn tiến hành trước khi tế ở Phương Đàn. Trình thức của lễ tế Nam Giao hết sức phức tạp với hàng trăm nghi tiết khác nhau. Gắn liền với những nghi tiết của lễ tế là các mục như cử Đại nhạc, nhạc Bát âm, múa Bát Dật… Gắn với từng các nghi tiết của lễ là nội dung của các nhạc chương được trình tấu như An thành chi chương, Triệu thành chi chương, Mỹ thành chi chương, Đoan thành chi chương, Vĩnh thành chi chương, Lai thành chi chương… Đây là những bài bản có ca từ bằng chữ Hán, tất cả các bài đều gắn với chữ Thành với ý nghĩa là thành công. Toàn bộ các nghi tiết trong lễ tế kéo dài đến khoảng 8 tiếng đồng hồ. Sáng hôm sau, các quan làm lễ khánh hạ, lạy mừng vua hoàn tất lễ. Sau đó đội hình của đoàn ngự đạo lại được tổ chức trở lại như cũ (cũng gồm ba đạo với trật tự như khi lên Trai Cung) bắt đầu hồi cung… Trong những màu sắc rực rỡ, trong những âm thanh rộn rã… đoàn ngự đạo lộng lẫy, uy nghi trở về Hoàng Thành. Khi vua về đến Đại Cung Môn bên trong Hoàng Thành đội hỏa pháo sẽ nổ 9 phát súng mừng và lễ Tế Giao chấm dứt. Trong thời gian tế lễ diễn ra, dân chúng nô nức đổ về xem khắp các trục đường khi đoàn ngự đạo đi qua. Cuộc lễ Tế Giao lần cuối cùng vào thời Nguyễn diễn ra vào ngày 23 tháng 3 năm 1945 dưới triều vua Bảo Đại. (lược trích từ các tài liệu trên Internet - Léopold Cadière miêu tả rất chi tiết về Đoàn rước, về việc Bố trí hiện trường, và về Nghi thức tế, nhưng ... phức tạp quá) Một số hình ảnh phục dựng lễ Tế Nam Giao trong dịp Festival Huế 2006 (tháng 6/2006) - sưu tầm Internet. http://i203.photobucket.com/albums/a...822f4c9739.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...nrcxutcung.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...bo712/onrc.jpg Đoàn rước rời hoàng cung http://i203.photobucket.com/albums/a...712/Dnnhcl.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...aotrongmrc.jpg Đội nhạc lễ và lá cờ sao. http://i203.photobucket.com/albums/a.../Hnhldisnn.jpg Dưới chân đàn tế, chuẩn bị lễ tế chính |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 3 : Đàn Nam Giao - lễ Tế Nam Giao
http://i203.photobucket.com/albums/a.../Cccgihnhl.jpg
http://i203.photobucket.com/albums/a...c9f222e2f3.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...15078d9989.jpg Một số hình ảnh lễ tế http://i203.photobucket.com/albums/a...bo712/cngl.jpg Đồ cúng tế http://i203.photobucket.com/albums/a...bo712/Hnhl.jpg http://i203.photobucket.com/albums/a...bo712/Dngl.jpg "Hoàng đế" thực hiện nghi lễ (ảnh phục dựng lễ tế Nam Giao, tại Festival Huế 2006 - sưu tầm Internet) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 3 : Đàn Nam Giao - lễ Tế Nam Giao
http://i203.photobucket.com/albums/a...Honghicung.jpg
Kết thúc lễ tế, "Hoàng đế" lên kiệu hồi cung Có một số tấm ảnh tư liệu cũ chụp lễ tế Nam Giao năm 1935, nhưng ảnh đen trắng, mờ quá, khó xem. http://i203.photobucket.com/albums/a...mGiaothixa.jpg Lễ tế Nam Giao 1935 - tư liệu trên mạng. |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 4 : Lăng Minh mạng
Đến Huế mà không đi thăm các khu lăng tẩm triều Nguyễn thì cũng thật phí. Đi khắp các khu lăng cũng tốn khá thời gian, mặt khác, cũng không thể bỏ qua Đại Nội, nên cuối cùng là dung hòa : đi cả hai nơi, xem trước để lần sau đi kỹ hơn. Ghé qua đàn Nam Giao chỉ là vì nó nằm ngay trên đường đi đến khu lăng, mà trời thì còn sớm quá. Đàn Nam Giao hiện tại cũng không có gì nhiều để chụp chẹp, nên chỉ gần nửa tiếng là rời đàn, tiếp tục hướng về phía Tây Nam thành phố để tới khu vực các lăng tẩm.
Các lăng tẩm Huế có một chủ đề tư tưởng chung, nhưng lại mang các phong cách nghệ thuật riêng. - Lăng Gia Long : hoành tráng - Lăng Minh Mạng : thâm nghiêm - Lăng Thiệu Trị : thanh thoát - Lăng Tự Đức : mơ mộng - Lăng Dục Đức : đơn giản - Lăng Đồng Khánh ; xinh xắn - Lăng Khải Định : tinh xảo Lẽ ra nên đi lăng Gia Long trước, nhưng lăng đó xa nhất, lại rộng lớn nhất, đi cả ngày mới xong, nên đành hẹn lần sau. Lần này thời gian có hạn, đi lăng Minh Mạng trước. Minh Mạng là vị vua thứ hai của triều Nguyễn, được sử sách đánh giá là một vị vua thuộc hàng xuất sắc nhất triều Nguyễn. Trong thời kỳ tại vị, ông ta đã làm được rất nhiều việc, từ các công việc cải cách bộ máy triều đình, tổ chức thi cử, chinh phạt ngoại bang,... bên cạnh đó, ông ta cũng đã cho xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, nghệ thuật cao. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826) nhà vua bắt đầu sai các quan giỏi địa lý phong thủy tiến hành đi coi đất chuẩn bị xây lăng cho mình. Nhưng mãi 14 năm sau (1840) vua mới chọn được địa điểm cùng đồ án kiến trúc ưng ý - là vị trí lăg hiện nay. Năm 1840, khi lên xem lại chỗ đất, vua đổi tên vùng núi Cẩm Kê ở đó thành Hiếu Sơn. Tháng 9/1840 triều đình huy động quân lính, thợ thuyền lên khu đất để điều chỉnh mặt bằng và xây vòng La thành bao quanh khu vực kiến trúc. Qua đầu năm sau, nhà vua băng hà (20/1/1841), vua Thiệu Trị lên nối ngôi. Một tháng sau, 20/2/1841 vua Thiệu Trị tiếp tục cho tiến hành xây dựng lăng. Triều đình điều lên công trường gần 10.000 lính và thợ, lại cử Đại Học sĩ Trương Đăng Quế thường xuyên lên kiểm tra, trông coi công việc. Ngày 20/8/1841, quan tài vua Minh Mạng được đưa vào chô ở Bửu thành bằng đường toại đạo. Tấm bia Thánh đức thần công trong Bi đình được dựng ngày 25/1/1842, nhưng phải sang đến năm 1843, công việc xây lăng mới hoàn tất. http://i203.photobucket.com/albums/a...ngminhmang.jpg Sơ đồ lăng Minh Mạng - ảnh sưu tầm Internet Toàn bộ khu lăng trông giống như một người đang nằm ngủ, đầu gối lên một ngọn đồi cao, tứ chi xuôi duỗi ra thoải mái. http://i203.photobucket.com/albums/a..._Minh_Mang.jpg Không ảnh lăng Minh mạng - ảnh sưu tầm Internet |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 4 : Lăng Minh Mạng
Các lăng tẩm ở Huế, một số có các vòng La thành được xây dựng (như lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức,..) một số lại tận dụng địa thế tự nhiên làm La thành, chứ không xây dựng La thành cụ thể (lăng Gia Long, lăng Thiệu Trị).
Vua Minh Mạng là người nghiêm khắc, khoa học. Bố cục lăng có thể cho thấy cá tính của nhà vua. Bên trong La thành, các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua một đường trục chính xuyên tâm lăng (sơ đồ). Tất cả đều được sắp xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống - giống như xã hội đương thời, được nhà vua tổ chức theo chính sách trung ương tập quyền. Ở phần trước lăng, các kiến trúc khá thưa, càng vào sâu, mật độ các công trình kiến trúc càng dày đặc. Bửu thành là nơi có mộ nhà vua, được xây theo hình tròn, biểu thị vua là mặt trời. mặc dù mang tính uy nghiêm đường bệ, lăng Minh Mạng vẫn có những nét đẹp quyến rũ của thiên nhiên đã được những người thợ tài hoa ngày xưa chỉnh trang lại để làm bối cảnh cho các công trình kiến trúc. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_6062.jpg Con đường đất vào lăng hiện tại. Lúc này mới khoảng 7g sáng mà đã nắng. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5966.jpg Bức Bình phong của lăng Minh Mạng http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5964.jpg Phía sau Bình phong là Đại Hồng Môn. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5963.jpg Đại Hồng Môn nhìn từ bên ngoài La Thành, sau bức Bình phong, hai con nghê đá hai bên. Đại Hồng Môn là cổng giữa, hai bên là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Đại Hồng Môn chỉ được mở một lần để đưa thi hài vua vào lăng, và được đóng chặt lại đến bây giờ (về nguyên tắc là thế, nhưng hình như tôi đã từng nhìn thấy một bức ảnh chụp cánh cổng gỗ của Đại Hồng Môn đang mở, mà chưa tìm lại được) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5969.jpg Để vào thăm lăng, hiện tại phải đi qua cửa bên phải, thẳng con đường đất rợp bóng cây, sau đó qua cây cầu nhỏ này để đến trước Sân chầu (Bái Đình) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 4 : Lăng Minh Mạng
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5975.jpg
Qua bên trong vòng La thành, để vào lăng, phải đi qua cây cầu nhỏ qua hồ Trừng Minh (nghĩa là Lắng trong, không tì vết) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4794.jpg Phía bên trong các Hồng Môn có 3 dãy bậc thang, ứng với 3 cửa, được phân chia bởi 2 cặp rồng đá như lan can. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4796.jpg Cánh cổng gỗ của Đại Hồng Môn, mà theo truyền thuyết, chỉ mở một lần duy nhất khi đưa thi hài vua vào lăng. Qua Đại Hồng Môn là Sân chầu (Bái Đình), nói chung ở các lăng tuy có khác nhau đôi chút về số lượng hoặc kích thước các công trình, nhưng đều gồm các phần chính : Cổng chính - Sân chầu - Bi Đình - Khu vực Tẩm điện (nơi thờ thần vị của vua và hoàng hậu, cùng các công trình kiến trúc khác làm nơi ở của những bà phi làm công việc hương khói sau khi vua mất) - Bửu thành (mộ vua). Sân chầu là một khoảng sân rộng lớn, được lát bằng gạch Bát Tràng. Hai bên là hai dãy tượng quan văn võ, tượng, mã và con Nghê. Thường là mỗi dãy tượng gồm 5 vị quan văn võ đứng chầu, cùng 1 mã, 1 tượng. http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4797.jpg Dãy tượng nhân mã bên trái Sân chầu (chụp 30/4/2009, trời mưa) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5972.jpg Dãy tượng nhân mã bên phải Sân chầu (chụp 14/6/2009, trời nắng) |
28 giờ ở Cố đô Huế - Part 4 : Lăng Minh Mạng
http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_5973.jpg
Bi Đình (Nhà bia) Bi Đình lăng Minh Mạng là một tòa lầu được xây trên một cái gò nhỏ - được gọi là đồi Phụng Thần Sơn, bên trong có tấm bia Ngự chế bằng đá lớn, được trang trí tỉ mỉ. Bia này được gọi là bia Thánh Đức Thần Công (Đức ngang bậc Thánh, Công sánh bậc Thần), thường là của vua đời sau ca tụng công đức của vị vua nằm trong lăng. (Tuy nhiên trong số các lăng tẩm ở Huế, tấm bia ở lăng Tự Đức do chính nhà vua chấp bút soạn, còn lăng Dục Đức không có bia) http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4817.jpg Chữ khắc trên bia và các hoa văn trang trí http://i203.photobucket.com/albums/a...2/IMG_4820.jpg Chân đế bia chạm đầu rồng ở giữa. Tấm bia trong lăng Minh Mạng do vua Thiệu Trị chấp bút soạn lời, và được dựng lên ngày 25/1/1842. |
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 05:03 PM. |
Powered by: vBulletin v3.x.x
Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.