PDA

Xem bản đầy đủ : Kinh thành Huế (28 giờ ở Cố đô Huế - part 6)


tunbo
13-10-2009, 08:05 PM
Kinh thành Huế là một không gian rộng lớn và hiện còn rất nhiều công trình kiến trúc ngày xưa còn lưu giữ được. Thực ra trong chuyến đi hồi tháng 6/2009, tuy lội bộ hơn 5 giờ, nhưng tôi mới chỉ loanh quanh (thậm chí còn bỏ sót nhiều chỗ) trong Đại Nội. Vì sau này nhất định còn quay lại đi tiếp Kinh thành Huế, nên phải tách riêng topic, vả lại, với những gì đang còn được lưu giữ, Kinh thành Huế hoàn toàn xứng đáng được để riêng.

Nói một cách tổng quát, Kinh thành Huế xưa là một tòa thành gần như hình vuông mỗi cạnh khoảng trên dưới 2,5km, riêng mặt trước hơi uốn cong cong theo thế của khúc sông hương chảy qua trước thành.
Bên trong Kinh thành, có một vòng thành nhỏ hơn, gọi là Hoàng thành - một tòa thành có mặt trước và sau dài 622m, hai mặt bên dài 604m - đây là nơi đặt các cơ quan trọng yếu của triều đình.
Bên trong Hoàng thành lại có một tòa thành nữa nhỏ hơn, là Tử cấm thành - mặt trước và sau dài 324m, hai mặt bên dài 290m - đây là nơi ở của hoàng gia.

Người ta còn gọi Hoàng thành (bao gồm cả Tử cấm thành) là Đại Nội

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/sodokinhthanhhue.png
Sơ đồ Kinh thành Huế. Đại Nội là phần nho nhỏ phía trước, gần sông Hương (ảnh sưu tầm trên Internet)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/sodotucamthanh.jpg
Sơ đồ Đại Nội. Các chỗ màu xanh là các công trình đã bị sụp đổ, các chỗ màu đỏ là các công trình hiện còn tồn tại.(ảnh sưu tầm trên Internet)

tunbo
13-10-2009, 08:44 PM
Kinh thành Huế được bắt đầu xây dựng năm 1805 dưới thời vua Gia Long, kéo dài đến năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng. Trong 2 năm 1803 và 1804, đích thân vua Gia Long cùng đại thần Nguyễn Văn Yến đi khảo sát thực địa, định vị mặt bằng và hoạch định kiến trúc.
Kinh thành nằm ở tả ngạn sông Hương, hai bên có hai nhánh chi lưu của sông Hương là sông Kim Long (Kẻ Vạn) và sông Bạch Yến (sông Đông Ba).
Dựa theo truyền thống phong thủy phương Đông, người ta bố trí mặt Kinh thành quay về hướng Nam (thực ra là Kinh thành Huế hơi chếch về hướng Đông Nam), chọn núi Ngự Bình cách đó vài km làm Bình phong (Tiền án), lại lấy hai cồn nổi trên sông Hương là Cồn Hến và Cồn Dã Viên làm thế Tả Thanh long - Hữu Bạch hổ chầu hai bên trước mặt kinh thành.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/sodokinhthanhhue.png
Xem lại sơ đồ Kinh thành (ảnh sưu tầm trên Internet). Mặt Kinh thành hướng về Nam, hơi chếch một chút về Đông. Phía trước là sông Hương như một Minh đường, hai bên Đông và Tây là sông Đông Ba và sông Kẻ Vạn, mặt sau người ta cũng đào sông nối hệ thống sông bao quanh Kinh thành như một lớp hào thiên nhiên (còn nhiều vòng hào nữa phía trong). Cồn Hến và Cồn Dã Viên trên sông Hương phía trước mặt Kinh thành là Thanh Long - Bạch Hổ chầu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Phongthuykinhthanh.gif
Sơ đồ toàn cảnh Kinh thành và vùng phụ cận (ảnh sưu tầm trên Internet). Núi Ngự Bình - Bình phong (Tiền án) của Kinh thành, nằm ngang với Đàn Nam Giao, về phía Đông của Đàn Nam Giao (trong phần về Đàn Nam Giao ở topic 28 giờ ở Cố đô Huế, trong bức ảnh của phía Đông của Đàn Nam Giao có thấy núi Ngự Bình)

Đó là kiến giải của "phe ca ngợi" phong thủy Kinh thành, còn một luồng ý kiến - tạm gọi là "chê" - thì lại nói rằng, núi Ngự Bình làm Tiền án cho Kinh thành, nhưng núi Ngự cao 104m, cao hơn hẳn cả Kỳ Đài (cao 55m từ đỉnh xuống nền sân), thành ra Tiền án chắn mất quá nhiều vượng khí của Kinh thành, hơn nữa, sau lưng Kinh thành là đồng bằng và ra đến biển, tức là phía sau quá trống trải, không bền vững. Kiến thức về phong thủy của mình mới chưa xứng được gọi là cấp nhập môn, chỉ nghe các cao nhân bàn thế, thì nghe lại và kể ra đây, không dám lạm bàn.

tunbo
14-10-2009, 10:53 PM
Theo sử cũ ghi lại, hè năm 1805 công việc xây dựng Kinh thành được bắt đầu. Khoảng 3 vạn nhân công đã được triều đình huy động vào công việc. Đầu tiên, người ta đào một con sông bao quanh mặt bằng quy hoạch làm Kinh thành, và lấy số đất đó để đắp nên một bức thành bằng đất. Mãi đến năm 1818, việc đắp bức thành đất ấy mới xong, lúc này số nhân công phục vụ công trình lên đến 8 vạn người. Cũng năm đó, người ta bắt đầu tiến hành xấy gạch ốp vào mặt tiền và mặt hữu (phía Tây), năm 1822 mới ốp gạch cho mặt hậu (phía Bắc) và mặt tả (phía Đông).
Lớp vòng thành này dày tới 21.5m, bao gồm 18.5m tường thành bằng đất, lớp gạch xây bó ở mặt ngoài dày 2m, lớp gạch xây bó ở mặt trong dày 1m. Trên mặt thành không phẳng, mà được xây giật cấp từ ngoài vào trong. Mặt lớp gạch xây bó bên ngoài cao 6.6m, còn mặt lớp gạch xây bó bên trong chỉ cao 2.1m. Đến năm 1831, 1832, vua Minh Mạng cho xây thêm tường bắn ở trên mặt ngoài cùng vòng thành (xây tường gạch cao lên, chừa các khoảng hở để nấp bắn ra, giống lỗ châu mai). Con sông đào bao quanh bên ngoài vòng thành (để lấy đất đắp thành), gọi là Hộ Thành Hà, rộng hơn 20m, làm thành một vòng chiến hào bảo vệ Kinh thành. Chu vi vòng thành ngoài cùng này là hơn 10.500 met


http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5879.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5849.jpg
Tường thành trước Kỳ Đài, Hộ Thành Hà ngay phía trước thành. Mặt ngoài tường thành cao 6.6m, tường bắn là lớp tường trên cùng, có các lỗ châu mai hở.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5866.jpg
Cửa Quảng Đức nhìn từ trước Ngọ Môn. Mặt thành được giật cấp về phía trong. Mặt tường thành xây bó gạch phía trong chỉ cao 2.1m.

trang11
14-10-2009, 11:41 PM
Đại Nội là phần nho nhỏ phía trước, gần sông Hương [B]

Cái này em nghĩ không chính xác. Đại Nội chính là cả 1 quần thể kiến trúc lớn hay con gọi là kinh thành còn phần nho nhỏ phía trước ấy được gọi là Nghinh Lương Đình, có cách gọi khác là Nghinh Linh Đình, là 1 bến thuyền nơi đậu thuyền du ngoạn của Vua và cũng là nơi Vua ra đó tắm rưae, thư giản, mỗi lần vua xuống tắm thì khu vực quanh đó được căng màn che. Đó là phần sắt bờ sông, còn qua phía bên kia đương trước Kỳ đài là Phú văn lâu hay còn gọi là Phu Văn Lâu - là nơi Vua cùng bá quan ra ngắm cảnh làm thơ.

tunbo
14-10-2009, 11:57 PM
Cái này em nghĩ không chính xác. Đại Nội chính là cả 1 quần thể kiến trúc lớn hay con gọi là kinh thành còn phần nho nhỏ phía trước ấy được gọi là Nghinh Lương Đình, có cách gọi khác là Nghinh Linh Đình, là 1 bến thuyền nơi đậu thuyền du ngoạn của Vua và cũng là nơi Vua ra đó tắm rưae, thư giản, mỗi lần vua xuống tắm thì khu vực quanh đó được căng màn che. Đó là phần sắt bờ sông, còn qua phía bên kia đương trước Kỳ đài là Phú văn lâu hay còn gọi là Phu Văn Lâu - là nơi Vua cùng bá quan ra ngắm cảnh làm thơ.
Hiểu sai ý anh rồi, "cái nhỏ nhỏ" là cái vòng thành hình vuông nho nhỏ - là cái Hoàng thành ấy - không đọc đoạn trên nói là lội bộ hơn 5 tiếng đồng hồ hay sao mà lại nói cái Nghinh Lương Đình hả em?

tunbo
15-10-2009, 09:23 AM
Bên trong Kinh thành, người ta còn đào một con sông đào từ Đông sang Tây, nơi với hệ thống Hộ Thành Hà và với sông Kẻ Vạn, sông Đông Ba ở hai bên Đông, Tây Kinh thành. Con sông đào ấy được gọi là Ngự Hà - sông Ngự, là nơi ngày xưa vua thường lên thuyền ngự để vãn cảnh. Hệ thống Hộ Thành Hà, ngoài mục đích phòng thủ, cũng là một con đường giao thông thủy và cũng thường được ngự thuyền du ngoạn.

Kinh thành có tất cả 11 cửa, trong đó có 10 cửa chính và 1 cửa phụ để đi qua Trấn bình đài (đồn Mang Cá), và 2 cửa thủy ở hai đầu Ngự Hà để dòng nước của con sông này hòa vào hệ thống hào, Hộ Thành Hà và sông Hương.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Caccongkinhthanh.jpg
Hệ thống các cửa của Kinh thành Huế - ảnh sưu tầm Internet

1. Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành).
2. Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây).
3. Cửa Chính Tây.
4. Cửa Tây-Nam (cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).
5. Cửa Chính Nam (còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố - nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long).
6. Cửa Quảng Đức .
7. Cửa Thể Nhơn (tức cửa Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông).
8. Cửa Đông-Nam (còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa).
9.Cửa Chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).
10. Cửa Đông-Bắc (còn có tên cửa Kẻ Trài)
11. Trấn Bình Môn (cửa nối với thành phụ ở góc Đông Bắc của Kinh thành, còn gọi là thành/đồn Mang Cá).

Hai cửa bằng đường thủy thông Kinh thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là:
Đông Thành Thủy Quan (a)
Tây Thành Thủy Quan (b).

tunbo
15-10-2009, 10:56 AM
Các cổng của Kinh thành Huế hầu hết được xây dựng vào hai giai đoạn: - Giai đoạn đầu (năm 1809) : xây phần cổng vòm.
- Giai đoạn 2 (năm 1829) : xây thêm vọng lâu 2 tầng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5866.jpg
Cửa Quảng Đức

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5867.jpg
Cửa Thể Nhơn - còn gọi là cửa Ngăn hoặc cửa Sập

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4961.jpg
Cửa Thể Nhơn ban đêm

Kích thước của các cổng thành được ghi lại trong Đại Nam Hội Điển Sự Lệ như sau:
Phần cổng vòm cao 2 trượng (khoảng 8,5m), riêng vòm cửa cao 1trượng, 2 thước, 2 tấc (khoảng 5,2m), rộng 9 thước (khoảng 3,8m);
Phần vọng lâu 2 tầng cao 2 trượng 1 thước (8,9m), rộng 2 trượng 8 tấc (khoảng 8,8m).

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5870.jpg
Cửa Thể Nhơn nhìn từ trong ra. Kết cấu vòm cửa cùng vọng lâu bên trên.

Vật liệu xây dựng cổng thành chủ yếu là gạch vồ, đá và vôi mật. Trước mỗi cổng thành đều có biển gắn bằng đá thanh ghi tên của cổng thành (Quảng Đức, Thể Nhơn, Chính Nam...). Vọng lâu được kiến trúc theo dạng nhà bia trong các chùa Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên hay trong các khu lăng tẩm của các vua triều Nguyễn ở Huế. Bốn mặt của vọng lâu đều có trổ cửa vòm, hai bên cửa chính trổ 2 cửa sổ tròn trang trí chữ Thọ, hai mặt còn lại trổ cửa tròn có cùng kích thước nhưng trang trí hoá thị. Phần mái của vọng lâu đều lợp ngói ống hoàng lưu li.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5880.jpg
Cửa Thể Nhơn nhìn từ ngoài vào

(tài liệu theo nguồn : Cố đô Huế)

tunbo
20-10-2009, 09:55 PM
Kỳ đài nằm chính giữa phía trước Kinh thành, được xây dựng vào năm 1807 và được vua Minh mạng cho tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840.
Đài cờ được xây làm 3 tầng chồng lên nhau, tầng dưới rộng, các tầng trên bó nhỏ lại dần. Các tầng hình ngũ giác, với cạnh đáy quay về phía trong, hai cạnh nhỏ tạo ra một góc hướng ra phía ngoài sông Hương. Tổng chiều cao của 3 tầng đài là 17,5met.
Cột cờ ban đầu dùng bằng gỗ, dựng ở chính giữa tầng đài trên cùng. Năm 1846, vua Thiệu Trị cho thay cột mới (hình như bằng đồng), nhưng đến năm 1904, trong cơn bão lịch sủ, cột cờ bị gãy, vua Thành Thái cho thay cột mới bằng gang. Năm 1947, trong cuộc chiến tranh với người Pháp, cột cờ lại bị đổ gãy, năm 1948, cây cột mới bằng bêtông cốt thép được dựng lên cho đến nay.
Thân cột cờ cao 37met, như vậy tổng chiều cao từ mặt đất đến đỉnh Kỳ đài là 54,5met

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6181-1.jpg
Kỳ đài, nhìn từ Lầu Ngũ Phụng bên trên Ngọ Môn

Hiện tại, người ta đặt hàng rào, không cho du khách lên Kỳ đài.

tunbo
20-10-2009, 10:29 PM
Sau khi dứt nhà Tây Sơn để lập ra triều Nguyễn, vua Gia Long đã lệnh thu thập mọi thứ khí giới bằng đồng của triều Tây Sơn, để đúc ra 9 khẩu thần công. Công việc được bắt đầu từ 31/2/1803 và hoàn thành tháng 1/1804.
Chín khẩu thần công được đặt tên theo bốn mùa : Xuân - Hạ - Thu - Đông, và theo ngũ hành : Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Đến năm 1916, vua Gia Long lại ra sắc phong cho cả chín khẩu thần công danh hiệu Thần Oai Vô Địch Thượng Tướng Quân.
Mỗi khẩu dài 5.1m, nặng trên dưới 10 tấn (khoảng 17.000 cân ta). Cân nặng cụ thể của từng khẩu được khắc trực tiếp lên thân súng :

• Khẩu 1 : Xuân, nặng 17.700 cân
• Khẩu 2 : Hạ, nặng 17.200 cân
• Khẩu 3 : Thu, nặng 18.400 cân
• Khẩu 4 : Ðông, nặng 17.800 cân
• Khẩu 5 : Mộc, nặng 17.000 cân
• Khẩu 6 : Hoả, nặng 17.200 cân
• Khẩu 7 : Thổ, nặng 18.800 cân
• Khẩu 8 : Kim, nặng 17.600 cân
• Khẩu 9 : Thủy, nặng 17.200 cân

Mỗi khẩu thần công được đặt trên một giá gỗ, có bánh xe bằng gỗ viền săt. Ban đầu cả chín khẩu được đặt ngay trước Hoàng thành, phía bên trái Ngọ Môn

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Cu_v_thn_cng_3.jpg
Vị trí đặt chín khẩu thần công ngày xưa, ngay dưới chân lũy Hoàng thành, bên trái Ngọ Môn - ảnh tư liệu, sưu tầm trên Internet

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/250px-Cu_v_thn_cng_4.jpg
Một khẩu thần công được di chuyển bằng con lăn, đòn bẩy - ảnh tư liệu, sưu tầm trên Internet

Sau, đến thời Khải Định, chín khẩu thần công được sắp xếp lại vị trí. Nhóm 4 khẩu Xuân - Hạ - Thu - Đông được xếp bên trái Ngọ Môn, gần cửa Thể Nhơn, nhóm 5 khẩu Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ được đặt bên phải Ngọ Môn, gần cửa Quảng Đức

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6162.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6164.jpg
Năm khẩu Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ được đặt ngay sau cửa Quảng Đức

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5926.jpg
Bốn khẩu Xuân - Hạ - Thu - Đông đặt ở gần cửa Thể Nhơn

tunbo
20-10-2009, 10:40 PM
Cửu vị thần công này chưa từng được dùng để bắn, chúng được xem là thần linh, linh vật hộ thành. Thời Nguyễn, triều đình có bố trí quan quân canh gác 9 khẩu thần công, và nhà vua thường tổ chức các lễ cúng tế. Sau này tục lệ ấy được bỏ, nhưng chính những người được phân công canh giữ Cửu vị thần công vẫn tiếp tục tự tổ chức cúng tế.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5873.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5875.jpg
Mỗi khẩu thần công được đặt trên giá gỗ, có bánh xe gỗ viền sắt

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5876.jpg
Thân súng được chạm khắc khá tinh xảo

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5874.jpg
Giá gỗ cũng được chạm khắc tinh xảo

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5877.jpg
Đuôi súng.

(Các hình ảnh này là của 4 khẩu Xuân - Hạ - Thu - Đông gần cửa Thể Nhơn, lúc trời mưa, mọi người trú mưa trong mái nhà che, nên không chụp được toàn thể 4 khẩu, đêm quay lại chụp thì bị nhòe)

tunbo
22-10-2009, 11:56 AM
Sau khoảng sân rộng như một quảng trường dưới Kỳ đài, là đến khu vực Hoàng thành.
Hoàng thành được bắt đầu xây dựng năm 1804, bao trong lòng nó là khu vực trọng địa số một của Kinh thành. Tường thành được xây bằng gạch, cao 4.16m, dày 1.04m. Chu vi vòng lũy Hoàng thành khoảng 2.5km, mỗi mặt trổ một cửa. Cửa phía Nam là Ngọ Môn, cửa phía Bắc là cửa Hòa Bình, cửa phía Đông là cửa Hiển Nhơn, cửa phía Tây là cửa Chương Đức.
Bên ngoài lũy thành có một hệ thống hào bao bọc Hoàng thành, hào rộng 16m, sâu 4m được kè bằng đá, gọi là Ngoại Kim Thủy

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6166.jpg
Hệ thống hào Ngoại Kim Thủy bao quanh Hoàng thành, phía sau là bờ tường lũy Hoàng thành

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6173.jpg
Giữa tường lũy và hào nước bao quanh, là một khoảng đất trống, rộng 13m, được gọi là khu vực phòng lộ (người ta giải thích rằng, đề phòng khi bị tấn công, tường thành có đổ thì gạch sẽ đổ xuống đây, chứ không đổ xuống lấp hào nước, khiến bộ binh địch không dễ dàng xâm nhập)

Có tổng cộng 10 cây cầu xây bằng gạch đá bắc qua con hào Ngoại Kim Thủy để nối Hoàng thành với bên ngoài.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6165.jpg
Ngọ Môn - cổng chính của Hoàng thành, với 3 chiếc cầu bắc qua hào Ngoại Kim Thủy

tunbo
22-10-2009, 12:30 PM
Ngọ Môn là cửa chính của Hoàng thành, nằm ở phía Nam. Ban đầu, vua Gia Long cho xây bên trên Ngọ Môn một cái đài nhỏ, gọi là Nam Khuyết đài, đến năm 1833, vua Minh Mạng cho phá bỏ Nam Khuyết đài, xây dựng lại Ngọ Môn mới đồ sộ như ngày nay chúng ta đang thấy. Ngọ Môn, gồm hai phần : phần đài, cổng bên dưới, và lầu Ngũ Phụng bên trên.

Nền đài cao gần 5m, hình chữ U liền với tường thành, đáy dài hơn 57m, cạnh chữ U dài hơn 27m.

"Đáy chữ U" có 3 cổng vào Hoàng thành, được xây bằng đá thanh, các xà gồ trê vòm cổng được làm bằng đồng thau (để đỡ sức nặng của lầu Ngũ Phụng bên trên), tiết diện 15cmx12cm, và "la-phông" là các tấm đồng dát mỏng. Cửa chính Ngọ Môn rộng và cao nhất, chỉ dành riêng cho vua đi (vì thế ngày xưa hầu như nó luôn đóng kín). Hai cửa bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn thấp hơn, dành cho các quan văn, võ theo hầu trong đoàn Ngự đạo của vua.
Hai bên cánh chữ U có hai cửa Tả Dich Môn và Hữu Dịch Môn chạy dọc theo chiều dài cánh chữ U, là lối dành cho voi, ngựa và lính tráng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6167.jpg
Hữu Dịch Môn - bên cánh chữ U bên phải

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6168.jpg
Tả Dịch Môn - bên chánh U bên trái. 3 cửa chính giữa (từ trái sang phải) Hữu Giáp Môn - Ngọ Môn - Tả Giáp Môn

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6170.jpg
Cánh cửa gỗ của Hữu Giáp Môn (và cả bên Tả Giáp Môn) được sơn màu đỏ

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6171.jpg
Cánh cửa Ngọ Môn sơn màu vàng (màu của vua). Cửa Ngọ Môn nhìn thẳng vào Điện Thái Hòa bên trong

tunbo
22-10-2009, 12:55 PM
Qua cổng Ngọ Môn (bằng hai cửa Tả, Hữu Giáp Môn) là đã vào đến bên trong Hoàng thành - còn gọi là Đại Nội. Lối lên lầu Ngũ Phụng là các bậc thang xây hai bên phía sau cánh chữ U của Ngọ Môn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6172.jpg
Lối lên lầu Ngũ Phụng từ phía sau Hữu Dịch Môn

Lầu Ngũ Phụng được xây dựng bên trên đài cổng Ngọ Môn, đây là lễ đài được dùng để tổ chức một số cuộc lễ lớn hàng năm của triều Nguyễ xưa. Nền lầu được tôn cao hơn mặt đài cổng 1.15m, cũng chạy ôm theo hình chữ U. Lầu Ngũ Phụng có hai tầng, tầng dưới lớn, tầng trên nhỏ, với 13 gian kết cấu thành một bộ khung cũng theo hình chữ U như nền đài.
Lầu có hai hệ thống mái. Mái tầng dưới nối liền, chạy vòng quanh che các hành lang (hình chữ U). Mái tầng trên được chia làm 9 bộ to nhỏ, cao thấp khác nhau, trên nóc các bộ mái trang trí nhiều hình chim phụng (nên mới gọi là lầu Ngũ Phụng) - tuy nhiên, nhìn hoài chẳng phân biệt được đủ 9 bộ mái trên lầu Ngũ Phụng :teasing:

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6176.jpg
Nền lầu Ngũ Phụng cao hơn mặt nền đài 1.15m. Cái thang gỗ chắc để lên lầu trên.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6182.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6175.jpg
Mái lầu, đếm hoài không ra 9 bộ

tunbo
22-10-2009, 01:17 PM
Tòa lầu Ngũ Phụng là một lầu gỗ, bao gồm tổng cộng 100 cây cột lim, trong đó có 48 cột thông suốt cả hai tầng lầu. Các con số ở Ngọ Môn và lầu Ngũ Phụng đều tuân theo nguyên lý Dịch học phương Đông, đó là các con số : 5; 9 và 100.
- Số 5 - năm lối đi - tượng trưng cho ngũ hành
- Số 9 - chín bộ mái lầu - tượng trưng cho hào "Cửu Ngũ" trong Kinh Dịch, ứng với chân mạng Thiên tử.
- Số 100 - 100 cây cột lim trong lầu Ngũ Phụng - bằng tổng của hai số 55 và 45. Trong đó, 55 là tổng các con số của Hà Đồ, còn 45 là tổng các con số của Lạc Thư.

Hà Đồ - Lạc Thư, là hai bộ họa đồ rất cổ xưa trong truyền thuyết Trung Hoa. Truyền thuyết nói rằng, thời vua Phục Hy - vào khoảng năm 4500 trước Công nguyên, trên sông Hoàng Hà bỗng xuất hiện một con Long Mã, trên lưng có các vết như một bức đồ hình, nhà vua bèn chép lại, sau gọi là Hà Đồ - đồ hình trên sông Hà.
Sau đó, vào khoảng những năm 2000 trước Công nguyên, khi vua Vũ trị thủy sông Lạc Thủy, lại thấy có một con rùa nổi lên, trên mai của nó cũng có những nét vạch kỳ dị, ngài cũng chép lại, bức đồ hình được gọi là Lạc Thư - bức họa từ sông Lạc.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/500px-Hado_lacthu.jpg
Đồ hình Hà Đồ - Lạc Thư cổ - ảnh sưu tầm Internet

Sau này, (nghe nói), từ các bức họa đó, Phục Hy lập nên Bát Quái Tiên Thiên, vua Vũ lập nên Bát Quái Hậu Thiên

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/hnhH.jpg
Hà Đồ dưới dạng số - tổng các con số của Hà Đồ là 55 - ảnh sưu tầm Internet

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/hnhLcTh.jpg
Lạc Thư - tổng các con số của Lạc Thư là 45 - ảnh sưu tầm Internet

Đọc các sách bàn về Dịch học phương Đông, hoặc chỉ là vào các diễn đàn về dịch lý số, đọc về các cách diễn giải Hà Đồ - Lạc Thư, cùng các ứng dụng của chúng, ôi hoa hết cả mắt, đọc mãi không hiểu tí gì, thấy phục các bác nghiên cứu món này quá.

tunbo
22-10-2009, 08:56 PM
Tầng dưới bên trái của lầu Ngũ Phụng có một chiếc chuông đồng lớn, đúc vào năm 1822 (năm Minh Mạng thứ 3). Chuông được đúc tinh xảo, cả giá chuông cũng được chạm trổ đầu rồng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6174.jpg
Quả chuông ở lầu Ngũ Phụng

Trên thân quả chuông có khắc một bài minh, sách Từ Ngọ Môn đến Thái Hòa Điện - NXB Trẻ 1994 -dịch tóm tắt bài minh :

Khi hoàng thượng tại vị được 3 năm, nghĩ đến việc đúc chuông lớn biểu lộ tiếng nói của mình, ra lệnh các quan có tài viết thành văn để ghi lại. Trộm nghĩ chuông là khí cụ phát ra âm thanh của nguyên khí. Âm thanh này được dùng trong buổi triều hội, yến tiệc. Âm vang của nó khiến nhân tâm cảm động để thấm nhuần cái đức của Trời Đất mà không kể công mình... Đó là bằng chứng của sự thịnh trị thời thái bình vậy. Nay, chúng thần chấp tay bái để xin hiến bài minh rằng :

Thánh hoàng khổ trị
Trăm phép quang minh
Nay chuông được đúc
Đều đúng quy trình
Không bày, không vẽ
Vang rộng nguyên thinh
Xa vang, gần rõ
Cùng hưởng hòa bình
Ngàn năm sau nữa
Cùng hưởng công thành


http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6184.jpg
Bên phía phải lầu Ngũ Phụng, đối xứng với quả chuông, là một cái trống lớn. cũng được để trên giá sơn son thếp vàng (mỗi tội lúc đó giữa trưa, có mấy gia đình du khách thấy chỗ ấy gió mát, kéo nhau ... nằm kềnh ra ngủ, nghỉ, nói khó mãi, họ mới khó chịu ngồi dậy ra chỗ khác cho mình chụp cái trống, vừa bấm xong 1 phát, họ lại kéo nhau nằm kềnh trở lại)


http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6179.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6178.jpg
Các cột lim bên trong lầu Ngũ Phụng ở tầng dưới

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6180.jpg
Bức tranh (hình như sơn mài) treo trong phòng chính ở tầng dưới lầu Ngũ Phụng, vẽ lại cảnh bá quan văn võ tụ tập ở sân trước Ngọ Môn.

tunbo
26-10-2009, 09:30 PM
Qua khỏi cửa Ngọ Môn là nhìn thấy Điện Thái Hòa. Nhưng để đến Điện Thái Hòa, ta phải đi qua một cây cầu bắc qua một cái hồ, đi qua một sân chầu lớn. Cây cầu trông thẳng chính cửa Ngọ Môn - chạy dọc theo đường trục Dũng đạo của Kinh thành - mang tên : cầu Trung Đạo. Cầu này bắc qua một hồ nhỏ, gọi là Hồ Thái Dịch

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6189.jpg
Cầu Trung Đạo bắc qua Hồ Thái Dịch, Điện Thái Hòa phía xa, sau sân chầu (sân Đại Triều nghi)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6185.jpg
Hai đầu cầu Trung Đạo là hai Nghi Môn bằng trụ đồng chạm rồng (long vân đồng trụ). Nhìn từ trên lầu Ngũ Phụng. Trên Nghi Môn phía Nam có dòng chữ : CHÍNH TRỰC ĐÃNG BÌNH (chữ Hán, nghĩa : ngay thẳng, rộng rãi). Đây là phương châm rất được vua Minh Mạng tâm đắc.

Kinh thành được vua Gia Long bắt đầu khởi công xây dựng, và được vua Minh Mạng sửa chữa, hoàn chỉnh một số công đoạn. Mặc dù sau này, các triều vua Nguyễn cũng có sửa chữa, tu bổ hoặc triệt giải một số công trình, nhưng về cơ bản, dấu ấn của vua Minh Mạng trong kiến trúc các công trình trong Đại Nội là khá nhiều.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6192.jpg
Nghi Môn ở đầu phía Bắc cầu Trung Đạo

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6193.jpg
Cột trụ đồng của Nghi Môn (phía xa là con Nghê đồng trên sân Đại Triều nghi)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6190.jpg
Cá trong hồ Thái Dịch

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6191.jpg
Sen trong hồ

tunbo
26-10-2009, 09:58 PM
Sân Đại Triều nghi - hay còn gọi là sân chầu - là nơi ngày xưa được dùng để tổ chức các buổi triều nghi quan trọng, và những buổi đại triều vào ngày 1 và 15 (âm lịch) hàng tháng. Các dịp này, vua ngự trên ngai vàng trong Điện Thái Hòa, các quan văn võ đứng xếp hàng ngoài sân chầu theo cấp bậc và phẩm hàm (triều Nguyễn có 9 bậc phẩm hàm, từ nhất phẩm đến cửu phẩm). Theo nguyên tắc xưa, quan văn bên trái, quan võ bên phải - theo hướng từ bên trong nhìn ra. Vị trí các quan đứng, được đánh dấu bằng các tấm bia đá nhỏ đặt trên sân.

Từ cầu Trung Đạo đi vào, qua 5 bậc đá, lên đến tầng sân chầu thứ nhất (còn gọi là Đệ nhị Bái Đình - các từ "sân chầu", "sân Đại Triều nghi", "Bái Đình" đều chỉ cái sân chầu trước tòa điện). Qua khoảng sân rộng, lên tiếp 4 bậc đá để lên tầng sân chầu thứ hai - Đệ nhất Bái Đình. Như vậy hai tầng Bái Đình có tổng cộng 9 bậc. Qua hết Đệ nhất Bái Đình, phải qua tiếp 5 bậc đá để lên thềm Điện Thái Hòa - ở đây lại thấy sự xuất hiện của số 5 và số 9 của "hào cửu ngũ".

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6194.jpg
Hai tầng Bái Đình trước Điện Thái Hòa

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6203.jpg
Các tấm bia đá "định vị" các quan khi dự lễ triều nghi đặt trên sân chầu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6202.jpg
Từ Đệ nhị Bái Đình nhìn ra phía Ngọ Môn (ngai vua bên trong Điện Thái Hòa nhìn thẳng tắp ra cổng chính Ngọ Môn, nhìn ra tận Kỳ đài)

tunbo
27-10-2009, 07:37 PM
Điện Thái Hòa là một trong số ít các công trình kiến trúc còn nguyên vẹn trong Đại Nội, nó cũng là một công trình thuộc loại quan trọng nhất trong Hoàng cung triều Nguyễn.
Điện Thái Hòa được khởi công xây dựng vào tháng 2/1805 và hoàn thành trong tháng 10 năm ấy. Ban đầu vua Gia Long xây dựng điện Thái Hòa không phải ở vị trí hiện tại, mà chếch về hướng Tây Bắc khoảng 45mét (tức là chếch về phía tay trái vị trí hiện tại, nếu nhìn từ Ngọ Môn vào). Sau, đến năm 1833, vua Minh Mạng có một đợt "tổng quy hoạch" lại các công trình kiến trúc trong Đại Nội, điện Thái Hòa mới được dời đến vị trí hiện nay đang tọa lạc, và còn được mở rộng bề thế hơn ngôi điện cũ mà vua Gia Long cho dựng nên. Cũng trong dịp 1833 ấy, vua Minh Mạng đã cho triệt giải Nam Khuyết đài để xây dựng Ngọ Môn - Lầu Ngũ Phụng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6199.jpg
Điện Thái Hòa được dựng bởi 80 cây cột lim trang trí hình rồng vờn mây. Có tới mấy trăm bài thơ được khắc trên các ô gỗ bên trong tòa điện.


http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6204.jpg
Bức đại tự ghi tên điện : THÁI HÒA ĐIỆN, bên cạnh là các ô gỗ được khắc các bài thơ bằng chữ hán - trong số đó, có nhiều bài của vua Minh Mạng.

Trong số các bài thơ khắc trong điện, có một bài nói về ý nghĩa tên gọi của điện (âm Hán):
Đại đức phù càn tạo
Thuần phong vãn thái hòa
Nghiêu cù thuận đế tắc
Xứ xứ dật âu ca
(theo Kiến trúc cố đô Huế - Phan Thuận An - NXB Đà Nẵng 2007)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6197.jpg
Ngai vàng được đặt ở gian giữa của điện, bên dưới và ở phía sau bức đại tự.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6205.jpg
Chính diện ngai vàng. Từ ngai vàng cho đến các bức bửu tán (màn che bên trên ngai vàng) và các mặt dỗ diềm bao quanh ba tầng của bệ đặt ngai vàng đều được trang trí hình 9 con rồng.

tunbo
27-10-2009, 07:53 PM
Năm 1891, vua Thành Thái cho trùng tu điện Thái Hòa, đến năm 1899 lớp gạch Bát Tràng tráng men lát nền được thay thế bằng gạch hoa.
Năm 1923, vua Khải Định lại cho đại tu điện Thái Hòa (nhằm phục vụ lễ mừng Tứ tuần Đại khánh tiết - vua tròn 40 tuổi - năm 1924), trong đó có cho lắp hệ thống của kính ở mặt trước và sau ngôi điện - các thời trước đó chỉ treo màn sáo để che, khi có đại lễ mới kéo lên để vua và các quan ở bên ngoài sân Đại Triều trông thấy nhau. Ngoài ra còn có một số thay đổi, tu bổ khác không nhiều.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6196.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6195.jpg
Mái điện được đắp nổi nhiều hình rồng trong nhiều tư thế (Mỗi tầng mái đắp 9 con rồng thì phải)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6208.jpg
Điện Thái Hòa nhìn từ phía sau lại

tunbo
30-11-2009, 01:14 PM
Qua khỏi sân sau của điện Thái Hòa, là đến Tử Cấm thành - nơi ăn ở của vua và hoàng gia - chốn cấm địa của Kinh thành.
Ban đầu, tòa thành này được gọi là Cung thành, sau vua Minh Mạng đổi là Tử Cấm thành (cấm thành màu tím) - chắc bắt chước nhà Thanh bên Tàu.
Vòng tường bao của Tử Cấm thành xây bằng gạch cao 3,5met, có trổ 7 cửa ra ngoài. Trong đó cửa chính hướng nam là Đại Cung Môn, ngay phía sau điện Thái Hòa

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6207.jpg
Từ sau điện Thái Hòa nhìn về Tử Cấm thành. Chỗ bờ tường chắc lúc trước là Đại Cung Môn.

Vừa bước qua Đại Cung Môn là thấy nơi làm việc hàng ngày của vua ngày trước : Điện Cần Chánh - nay chỉ còn lại dấu tích nền

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6213.jpg
Từ nền điện Cần Chánh nhìn lại phía điện Thái Hòa

Điện Cần Chánh là nơi làm việc thường ngày của vua (thường triều). được xây dựng bằng gỗ năm 1804. Đây còn là nơi vua tiếp các sứ bộ quan trọng, hoặc là nơi tổ chức các buổi yến tiệc trong các ngày lễ khánh hỷ lớn. Với diện tích gần 1000m2, đây là ngôi điện gỗ lớn và đẹp nhất Tử Cấm thành khi xưa. Tuy nhiên điện Cần Chánh đã bị cháy và sập đổ trong chiến tranh năm 1947. Hai bên sân điện là Tả Vu và Hữu vu - ngày nay người ta cho du khách thuê đồ (nhái) trang phục hoàng gia để chụp ảnh lưu niệm trong tòa Hữu Vu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6211.jpg
Tả Vu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6210.jpg
Hữu Vu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6209.jpg
Vạc đồng trước sân điện Cần Chánh - nền điện cao cao phía xa.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6214.jpg
Nền điện Cần Chánh ngày nay.

Sau bức bình phong là khu vực ở của nhà vua : điện Càn Thành