Ðăng Nhập

Xem bản đầy đủ : 28 giờ ở Cố đô Huế


tunbo
12-07-2009, 12:06 AM
Vùng đất Cố đô - một vùng đất thấm đẫm văn hóa, với những lăn tẩm các vua triều Nguyễn, với Kinh thành xưa, chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén,...
Một thành phố nhỏ yên bình, phố nhỏ rêu phong, soi bóng bên dòng sông Hương thơ mộng, với một nhịp sống chậm rãi khác hẳn Sài Gòn đông đúc náo nhiệt.
Trung tuần tháng 6/09, tôi có dịp ghé qua và dừng lại ở Huế. Do thời gian cũng kẹt, nên chỉ ở Huế được vẻn vẹn 28 tiếng, từ 14g30 hôm trước cho đến 18g30 hôm sau, lại đúng vào dịp cả nước gặp đợt nắng nóng, Huế nóng như thiêu.

Tuy sau đây là những hình ảnh, những câu chuyện, những truyền thuyết về mảnh đất Cố đô, được sắp theo thứ tự thời gian tôi ở Huế, nhưng không phải viết về hành trình của một chuyến đi, mà về một vùng đất thì đúng hơn, nên để nó nằm trong "Mọi miền đất nước" chứ không ở "Nhật ký các chuyến đi".
Vì chỉ có 28 giờ (kể cả thời gian ... ăn,ngủ), nên tôi đi không ngừng, vừa đi vừa chụp - tất nhiên, phần lớn là đi bộ, vì thế, ảnh rất nhiều, post lên sẽ không thể nhanh được.

Theo thứ tự thời gian, có các phần :

- Part 1 : Chùa Thiên Mụ
- Part 2 : Huế lên đèn
- Part 3 : Đàn Nam giao
- Part 4 : Lăng Minh Mạng
- Part 5 : Quần thể lăng Thiệu Trị
- Part 6 : Kinh thành Huế
- Part 7 : Lăng Dục Đức - Thành Thái - Duy Tân

(các bạn nào có những hình ảnh, câu chuyện hoặc truyền thuyết liên quan, cứ góp vào cùng tôi, chỉ cần sao cho đúng lúc)

tunbo
12-07-2009, 12:24 AM
Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, sát tả ngạn sông Hương, cách Tp Huế khoảng 6km về phía Tây. Con sông Hương, bắt nguồn từ những khe suối từ vùng núi phía Tây Nam huyện Phú Lộc, chảy ngược về hướng Đông Bắc. Đến đoạn gần đồi Hà Khê, dòng sông mở rộng ra, ôm theo chân đồi, uốn tròn qua phía Nguyệt Biều, tạo ra một quãng rộng mênh mông. Trong khung cảnh ấy, đồi Hà Khê như một hòn đảo nằm trong một cái vịnh, toàn cảnh như một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5846.jpg
Sông Hương, khúc chảy ngang chân đồi Hà Khê, nhìn về phía thượng nguồn

Người ta cho rằng, đồi Hà Khê chính là một tảng đá hoa cương trong mỏ đá vôi Long Thọ - Lại Bằng, do đó, khi sông Hương chảy tới chân đồi, dòng nước không thể bào mòn khối đá cứng này để băng qua được, nên sông đã bị uốn dòng lượn tròn qua trước mặt đồi Hà Khê để chảy thẳng về trước Kinh thành.

tunbo
12-07-2009, 08:18 PM
Huyền thoại Thiên Mụ :

Người ta đã nghiên cứu các thư tịch cổ còn sót lại, và biết được rằng, trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, trên đồi Hà Khê đã có một ngôi chùa, là chùa Thiên Mỗ. Thiên Mỗ, chính là Thiên Mụ, tùy vào thời đại, tùy địa phương mà người ta đọc ra hai cách khác nhau.(Trong Hán tự, chữ Mỗ - hoặc Mụ - có 3 nghĩa : Ta, Bà giáo, Bà lão). Thiên Mỗ hay Thiên Mụ, mang ý nghĩa là : Bà lão ở trên trời (xuống).
Tuy nhiên, cuốn sách cổ nhất nói về ngôi chùa này, lại không hề ghi một lời nào về cái huyền thoại về bà lão trên trời xuống - dù trong sách đó lại nói rất nhiều đến các thần thoại về các đền chùa ở Hóa châu thời đó - vì thế, người ta mới nghĩ rằng, huyền thoại Thiên Mụ có thể do Nguyễn Hoàng hoặc các mưu sĩ của ông nghĩ ra một cách có chủ đích.
Các tài liệu nói về huyền thoại Thiên Mụ, tuy cách nói, lời văn có thể khác nhau đôi chút, nhưng nội dung đều là một. Đại Nam nhất thống chí bộ chính sử thời Nguyễn (1910) chép về huyền thoại này :

Chúa thượng đến xã Hà Khê, thấy giữa đồng bằng nổi lên một gò đất cao như hình đầu rồng ngoảnh trông trở lại, phía trước ngó thẳng ra trường giang, phía sau có hồ, cảnh trí rất đẹp, nhân hỏi thăm nhân dân địa phương, họ nói gò này rất linh dị. Tương truyền ngày xưa có người ban đêm thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục ngồi trên gò mà nói rằng "Sau sẽ có vị chân chúa đến sửa dựng lại chùa này, tụ linh khí để giữ vững long mạch cho được bền vững".
Nói xong thì biến mất, nhân đó mà núi này được gọi là Thiên Mụ sơn. Chúa thượng cho rằng đất này có linh khí, bèn dựng chùa gọi là Thiên Mụ tự

Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An hoàn thành năm 1555 - trước khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa 3 năm - đã nói đến chùa Thiên Mỗ trên đồi Hà Khê. Ngôi chùa ấy có từ bao giờ, do ai dựng, sách không hề nói tới, cũng như không hề có một lời nào về truyền thuyết bà lão áo đỏ. Huyền thoại ấy xuất hiện trong các thư tịch từ đời chúa Nguyễn Phúc Chu (sách Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, năm 1719)

Nhưng người ta cũng thừa nhận (qua các tài liệu cổ), việc làm lại ngôi chùa trên đồi Hà Khê và đặt lại tên là Thiên Mụ, chính do Nguyễn Hoàng thực hiện.
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, khi ông mới 34 tuổi, nhưng đến 44 năm sau ông mới dựng lại và viết lại tên chùa, khiến người ta không khỏi nghi ngờ. Rõ ràng, ông ta là người tài năng, biết nhìn xa trông rộng, tại sao một vùng đất sơn triều thủy tụ như Hà Khê mà sau 44 năm, ông ta mới đụng vào? Đương nhiên chưa chắc đã phải thế, Nguyễn Hoàng chắc chắn đã đi ngang dọc khắp đất Thuận Hóa từ khi mới vào trấn thủ để dò xét thế đất, nhưng ông ta tìm ra nơi núi sông giao hội là Hà Khê khi nào, thì không có sử sách nào nói đến. Người ta chỉ có cách lý giải, khi Nguyễn Hoàng dựng lại chùa, viết tên mới cho chùa, là lúc tiềm lực của ông ta đã đủ mạnh (vì đã qua 44 năm ông ta vào Thuận Hóa), và việc dựng lên một huyền thoại ... có lợi cho mình, là một nước cờ hay. Trước ông, và sau ông, cũng có những người sử dụng thủ thuật ấy để chiếm lợi thế trong việc dựng nghiệp

(Trước Nguyễn Hoàng, thời khởi nghĩa chống giặc Minh, Nguyễn Trãi bí mật cho quân lấy mỡ, mật quét lên lá mấy chữ : Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, để cho kiến bâu vào đục thành chữ trên lá, để củng cố lòng dân, gieo hoang mang vào lòng địch.
Sau Nguyễn Hoàng, thời điểm bắt đầu khởi nghĩa Tây Sơn, Nguyễn Nhạc cũng từng dựng nên màn kịch vị thần trên trời xuống trao gươm báu cho ông ta, trong một đêm huyền ảo trên núi)

Đó là các suy đoán của đời sau, còn huyền thoại vẫn là huyền thoại, và, xét cho cùng, Nguyễn Hoàng quả là một vị "chân chúa" như trong huyền thoại nói đến, khi ông đã có những công lao vô cùng to lớn trong việc khai khẩn, mở đất vào phương Nam sau này.

tunbo
12-07-2009, 10:08 PM
Lịch sử chùa Thiên Mụ và lịch sử xây dựng Kinh thành Phú Xuân (Huế) đã quyện lấy nhau rất mật thiết. Nếu coi "huyền thoại Thiên Mụ" là bản "dự thảo" kế hoạch lâu dài của Nguyễn Hoàng, thì sau này, rõ ràng các chúa Nguyễn đời sau đã thực hiện kế hoạch ấy từng bước khá chặt chẽ.
Từ khi Nguyễn Hoàng dựng lại chùa năm 1601, trải qua các đời chúa, vua Nguyễn đời sau, chùa không phải được xây dựng bởi cái tâm nguyện truyền bá Phật giáo, mà sự xuất hiện của ngôi chùa lại cho thấy cái phần Phật giáo đóng góp vào tinh thần dân tộc. Bản thân Nguyễn Hoàng không phải là người ái mộ đạo Phật từ bi. Ông ta cho dựng lại chùa, chủ yếu nằm trong chí hướng "trấn yểm để thu góp khí thiêng cho cuộc đất Thuận Hóa" - như lời trong huyền thoại Thiên Mụ. Ông ta dựng chùa tại một địa điểm đắc địa về phong thủy, trên ngọn đồi có cấu tạo đặc biệt về sự phối hợp giữa sông núi và phong cảnh, xong rồi để đấy, thờ tự ra sao, ai trụ trì, lễ lượt như thế nào,... sử sách sau đó không hề nói tới. Ba năm liên tiếp sau khi làm lại chùa, tổ chức đại lễ, nhưng 12 năm sau đó, cho tới khi Nguyễn Hoàng mất, không có sách nào chép về việc ông ta có quay lại chùa, hoặc trùng tu chùa hay không (Nên nhớ, khi đó thủ phủ của Nguyễn Hoàng đang còn ở ngoài đất Quảng Trị hiện nay, chứ chưa phải là Huế, tận năm 1613, sau khi nối ngôi chúa, Nguyễn Phúc Nguyên mới dời lỵ sở lần đầu từ Ái Tử vào Trà Bát, và còn thêm vài lần dời đổi, mất gần chín chục năm sau nữa, thủ phủ Đàng Trong mới được đặt tại Huế bây giờ - gần chùa Thiên Mụ)

Qua gần 50 năm từ khi Nguyễn Hoàng xây lại chùa, sử sách hầu như không nói tới chùa Thiên Mụ (đời hai vị chúa kế tiếp Nguyễn Hoàng, là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan). Đến đời chúa tiếp theo là Nguyễn Phúc Tần, năm 1665 mới cho tu sửa chùa. Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái (Nguyễn Phúc Trăn) dời đô về Phú Xuân, lúc này công cuộc hoạch định của Nguyễn Hoàng khi xưa coi như đã hoàn thành. Tuy nhiên mấy đời này, các vị chúa Nguyễn thường phải lo việc binh đao với Đàng Ngoài, nên hầu như không quan tâm nhiều đến chùa chiền, đến đời Nguyễn Phúc Chu, ông ta lại là người quan tâm nhiều đến Phật giáo, thời gian ông này tại vị, có nhiều vị hòa thượng Trung Hoa được mời đến các chùa ở Phú Xuân, trong đó có chùa Thiên Mụ.
Đến năm 1714, sau gần 20 năm ngồi trên ngôi chúa, Nguyễn Phúc Chu cho tu sửa lại chùa Thiên Mụ , làm mới thành một ngôi chùa to lớn hơn nhiều, và gọi là Thiên Mụ Thiền Tự. Việc sửa chữa, xây dựng lại chùa lần này, còn được ghi lại, và hiện vẫn còn trên tấm bia đá lớn tại chùa, trong đó có một đoạn (lời dịch) lời chúa Nguyễn Phúc Chu :
"...Quyên góp ngọc ngà, chẳng tiếc vàng bạc; hễ luật nước đã truyền, công việc xây dựng lâu đài cung điện do quân lính đảm trách chẳng sợ lao nhọc, đến cùng lực có toàn dân giúp sức, cũng chẳng sợ năm tháng kéo dài ..."

Cũng theo lời văn bia của chúa Nguyễn Phúc Chu, người ta cho rằng, toàn bộ đỉnh đồi Hà Khê đã được quân lính san thành mặt bằng vào năm 1714 này, và có thể họ đã sửa sang từ bờ sông, bến nước cho đến các tầng bậc xung quanh đồi. Lần tu sửa, làm mới này, đã tạo nên một ngôi chùa lớn tuyệt đẹp với nhiều nhà cửa, điện đài rực rỡ.

Từ đó về sau, đến khi chúa Nguyễn Phúc Thuần bôn tẩu vào Nam, chùa không được tu sửa thêm nữa. Thời gian quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, rồi thời nhà Tây Sơn đóng đô tại đây, chủ yếu lo việc binh đao, chùa càng xuống cấp, hoang phế.
Năm 1802, Gia Long lên ngôi vua, tuy về cơ bản, ông ta không phải người theo Phật giáo, nhưng Gia Long vẫn lưu ý đến chùa Thiên Mụ, năm 1803 ông ta có làm lễ cầu siêu cho binh sĩ tử trận tại chùa - lúc này gần như đã thành hoang phế, dấu tích huy hoàng thời chúa Nguyễn Phúc Chu xây lại chùa gần như biến mất hết. Tuy nhiên, nhờ vào những may mắn hy hữu, có người còn nghi nhớ được các dấu vết cũ của các điện, đài, năm 1815, Gia Long đã cho dựng lại một lần nữa ngôi chùa Thiên Mụ, dựng lại trên đúng các nền cũ từ thời Nguyễn Phúc Chu năm 1714. Và cũng từ đợt xây lại chùa năm 1815 này, Gia Long đã cho đúc thêm một quả chuông, và tiếng chuông chùa ngày nay, cũng chính là tiếng chuông chùa đã vang lên từ năm 1815 đó.

Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi, năm 1844 ông đã cho xây tháp Phước Duyên , và sửa chữa chùa Thiên Mụ rất nhiều. Thực ra, ý tưởng xây tháp là của vua Minh Mạng - một ông vua đã cho xây dựng lên rất nhiều công trình kiến trúc vừa vĩ đại, vừa mỹ thuật trong thời kỳ ông ta trị vì. Tuy nhiên, ông ta không kịp thực hiện việc xây tháp Phước Duyên, thì đã mất.

Tự Đức lên ngôi lâu mà chưa có con, ông ta cho rằng đó là do ... trời phạt mình, nên ra lệnh cấm, không được phạm vào mấy chữ Thiên, Địa (năm 1862), vì thế, từ năm ấy, chùa được gọi là Linh Mụ, tuy nhiên sau một thời gian, vua vẫn không có con, nên trong dân chúng, người ta lại gọi chùa là Thiên Mụ, và từ đó đến nay, chùa có hai cái tên vậy.

Năm Thành Thái thứ 16 - 1904 - một trận bão rất lớn đi ngang Kinh thành Huế đã làm hư, sụp một số công trình trong khuôn viên chùa, nhưng mãi 2 năm sau, vua Thành Thái mới lệnh tu sửa chùa, và thực tế là đến năm 1907 chùa mới được thực sự tu sửa.
Năm 1908, tháp Phước Duyên bị hư hại do sét đánh, nên có được tu bổ lại.
Suốt thời kỳ các triều Khải Định, Bảo Đại, chùa không được tu sửa, trở nên hoang phế, nhưng vẫn có tăng chúng ở chùa.
Năm 1947, quân Pháp chiếm đóng chùa Thiên Mụ một thời gian, chúng đã phá cửa chùa, chẻ tạng Kinh khắc trên gỗ để dùng làm củi đốt.
Năm 1958, chùa được đại trùng tu, do Viện Bảo tồn cổ tích thời đó thực hiện. Tuy những người làm công tác bảo tồn hồi 1958 đã hết sức cố gắng phục dựng lại để giữ vẻ cổ kính của ngôi chùa, nhưng vì nhiều điều kiện khách quan, người ta vẫn phải dùng nhiều xi măng cốt thép thay cho gỗ.

tunbo
12-07-2009, 11:14 PM
Hiện tại, mặt trước của ngọn đồi Hà Khê đã được sửa sang lại thành các bâc, có kè đá vững chắc, con đường trải nhựa phía trước (mới có từ năm 1958) lượn vòng, ôm lấy một phần tư quả đồi, dòng sông Hương ăn sát vào chân đồi. Ba mặt khuôn viên chùa có xây tường cao hơn 2met như một vòng la thành.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5789.jpg
Mặt trước chùa, sườn đồi đã được làm thành các bậc cấp

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5847.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5845.jpg
Vòng la thành ba mặt chùa, trên lưng chừng đồi

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5848.jpg
Nước sông Hương ăn đến sát chân đồi

tunbo
13-07-2009, 07:56 PM
Từ mặt đường nhựa đi lên qua 5 bậc, đến một "chiếu nghỉ", ở đó người ta dựng 4 cột trụ biểu. Một số nhà nghiên cứu về Huế cho rằng những trụ biểu này được xây dựng ở các thời kỳ khác nhau, cụ thể là hai trụ ngoài được xây ở thời Thiệu Trị, hai trụ giữ được xây sau (nhưng chưa tìm được tài liệu nào nói cụ thể thời gian xây các trụ biểu). Người ta đặt gia giả thuyết đó, vì :

Câu đối ở hai trụ ngoài nét chữ to và sắc sảo hơn, lại có 2 tấm biển bằng đồng nhỏ, mỗi tấm khắc hai chữ "Ngự chế" đóng ở trên 2 câu đối. Ở vào thời phong kiến, cái gì của vua cũng phải được đặt ở nơi trang trọng nhất, vì thế, nếu cả 4 trụ xây cùng thời gian, chắc chắc hai câu đối "Ngự chế" của vua phải được đặt ở 2 trụ giữa.

4 vế đối ở 2 trụ biểu ngoài, là của chính vua Thiệu Trị. Hai câu đối ở phía ngoài của 2 trụ (Hán tự) :

Tinh thổ phạn cung, phật nhật tăng huy vu tứ đại
Ma không bửu tháp, pháp luân thường chuyển vu tam thiên

(Nghĩa :
Từ cõi trời tịnh độ, ánh sáng của Phật chiếu sáng mãi khắp bốn cõi lớn
Tháp quý vút lên không, bánh xe Pháp luôn luôn chuyển trong ba nghìn thế giới)

Hai câu đối ở mặt phía trong 2 trụ này là :

Khai phá bồ đề tâm nhi hóa thông vạn loại
Hoằng thi phương tiện lực dĩ giác ngộ quần sinh

(Nghĩa :
Mở rộng tâm bồ đề mà vạn loại chúng sinh đều được giáo hóa thông minh
Rộng đem sức mạnh của phương tiện để dạy dỗ cho muôn loài biết đạo)


Qua khỏi "chiếu nghỉ" có 4 trụ biểu, leo tiếp 14 bậc cấp nữa là đến phần sân ngoài của chùa. Ta thấy đầu tiên ở sân này là một nền vuông, cao chừng nửa met nằm ở giữa sân, nền cỏ mọc xanh non, ngay trước tháp Phước Duyên. Đó là dấu tích nguyên vẹn cái nền của Hương Nguyện đình. Đây là kiến trúc được xây dựng năm 1844 đến 1845 (cùng trong khoảng thời gian tháp Phước Duyên được xây dựng - thời vua Thiệu Trị) - hình như cơn bão năm 1904 đã làm sụp tòa đình này. Đây vốn là chỗ nghỉ mát của vuakhi đến ngắm cảnh chùa, cũng là nơi vua tĩnh tâm trước khi hành lễ ở chùa. Hiên tại, phía sau nền đình, trước tháp có 2 cây hoa sứ cổ, thường nở hoa rất nhiều vào dịp Phật đản hàng năm.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4882.jpg
Dấu tích còn nguyên vẹn nền của Hương Nguyện đình

tunbo
13-07-2009, 08:21 PM
Từ ngoài nhìn vào, hai bên nền cũ của Hương Nguyện đình là lỗi đi vào chùa, ở hai bên của hai lối đi này có 4 kiến trúc nhỏ, gồm 2 nhà vuông phía trước, hai nhà lục giác phía sau. Đây chính là 2 Bi đình (nhà bia) của vua Thiệu Trị - phía trước, nhà vuông - và 2 nhà lục giác của chúa Nguyễn.

Bi đình của vua Thiệu Trị phía tay phải (từ ngoài nhìn vào) chứa bia đá nói về việc dựng tháp Phước Duyên, thường gọi là Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4881.jpg
Bi đình của vua Thiệu Trị, chứa Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi

Bi đình phía tay trái, chứa bia đá khắc 8 bài thơ của vua Thiệu Trị làm vào những lúc thăm viếng hoặc vịnh cảnh chùa. (Vua Thiệu Trị tự xếp hạng có 20 thắng cảnh ở chốn Kinh thành, trong đó Chùa Thiên Mụ được ông đặt ở vị trí thứ 14)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/CopyofIMG_4882.jpg
Bi đình của vua Thiệu Trị chứa bia đá khắc thơ vịnh cảnh chùa của nhà vua.

tunbo
13-07-2009, 11:12 PM
Sau hai Bi đình của vua Thiệu Trị, gần như ngang hàng với tháp Phước Duyên, là hai tòa nhà lục giác, được xây dựng trước hai Bi đình 31 năm, đươi thời vua Gia Long.

Tòa nhà lục giác bên phải (theo hướng từ ngoài đi vào) chứa một tấm bia đá rất lớn của chúa Nguyễn Phúc Chu, nói về việc xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm 1714. Bia là một khối đá cẩm thạch màu đen, dựng trên lưng một con rùa đá, con rùa lại nằm trên một bệ đá được chạm thành hình cái kỷ có 4 chân quỳ. Rùa và bệ được tạc từ nguyên một khối đá cẩm thạch trắng rất lớn (Không hiểu ngày xưa cổ nhân làm thế nào. Chắc làm xong nền nhà, chuyển khối đá gồm bệ và rùa vào, lắp tấm bia lên lưng rùa, rồi mới tiếp tục xây dựng phần trên của Bi đình). Tấm bia đến nay đã trải gần tròn 300 năm - được gọi là Trùng kiến Thuận Hóa Thiên Mụ tự bi. Lời văn khắc trên bia do chúa Nguyễn Phúc Chu thảo ra, nói về việc tu sửa, làm mới chùa Thiên Mụ năm 1714, và miêu tả khung cảnh tuyệt vời của chùa, trong đó có đoạn (dịch) :

Từ cửa núi đi vào có điện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng. Đại Hùng Bảo Điện, nhà thuyết pháp, lầu Tàng Kinh. Hai bên là lầu Chuông và lầu Trống, rồi điện Thập Vương, nhà Vân Thủy, nhà ăn, nhà tọa thiền; rồi điện Đại Bi, điện Dược Sư, nhà ở của chư tăng, nhà trọ cho khách, không dưới vài mươi sở. Bên sau là vười Tì Da, trong vườn có nhà Phương trượng và các chỗ cũng không dưới vài chục sở. Tất cả đều sáng chói rực rỡ, khiến cho người xem phải kinh ngạc sợ hãi. Thật là một tòa Quang Minh trong thế giới đầy sắc vàng rực vậy
...
thường ngày ngắm cảnh, bước lên đến lầu kinh, bỗng nhiên thấy tâm hồn thư thái rộng mở. Dựa vào lan can lầu để phóng mắt nhìn. Về phương Đông, mặt trời lơ lửng giữa không trung, rọi chiếu cho muôn loài sinh sống; về phương Nam, những đỉnh núi cao đẹp trùng trùng kéo dài cả ngàn dặm, trên đầu đỉnh núi lặng treo thảm mây trắng không cùng tận, cảnh nhiều màu không tả xiết, bao vẻ đẹp ấy nói lên thời văn minh thịnh trị; phương Tây thì có tùng xanh liễu biếc, lá ngăn như cái bình phong che chở cửa thiền; phương Bắc thì nhìn về vùng chính phủ đóng dinh, trong tre xanh đẹp ẩn hiện thấp thoáng những vườn cây xanh tốt của vạn nhà; gió nhẹ thoang thoảng đong đưa trước muôn ngàn cửa ngõ. Cảnh đẹp trước mắt, họa sĩ khó lòng vẽ được ...

(Hà Xuân Liêm - Chùa Thiên Mụ - NXB Thuận Hóa)

Tiếc là mấy tấm ảnh chụp Rùa cõng bia hỏng hết, sau này sẽ bổ sung lại sau


Tòa nhà lục giác bên trái có treo bên trong một cái chuông đồng rất lớn, gọi là Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn. Chuông cao tới gần 2,5m, nặng hơn 2 tấn (3.825 cân xưa). Các hoa văn cùng nghệ thuật đúc đồng thời chúa Nguyên Phúc Chu để lại, tinh xảo và vượt xa so với các chuông đồng những đời sau ông còn để lại.
Cùng với bia và rùa đá, Đại Hồng Chung - cũng có tuổi gần tròn 300 năm - là hai trong số các bảo vật của chùa Thiên Mụ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5800.jpg
Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn, đặt trong nhà lục giác, tuổi thọ đến nay đã 295 năm.

tunbo
18-07-2009, 08:45 PM
Gần như nằm ngang hàng với hai tòa nhà lục giác chứa bia rùa đá và Đại Hồng Chung thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, là tòa bảo tháp Phước Duyên. Mặc dù có sau bia và chuông của chúa Nguyễn Phúc Chu khá lâu (135 năm), nhưng tháp Phước Duyên vẫn có một vị trí đặc biệt trong kiến trúc và lịch sử của chùa Thiên Mụ. Trong dân gian Thuận Hóa sau này, cũng ít người để ý biết tháp có từ bao giờ, thậm chí người ta cũng dần dần quen gọi là tháp Thiên Mụ. Có cả những câu chuyện truyền khẩu mang tính dân gian, nói rằng tháp được xây dựng từ thời Gia Long, và để thờ cái vỏ trấu to bằng cái nón !!!

Thực sự, tháp được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844, xong vào năm 1845, nhưng ý tưởng xây tháp để trấn cho Kinh thành, là của cha ông ta - vua Minh Mạng. Ban đầu, bảo tháp được gọi là Từ Nhân tháp, nhưng khi làm xong, vua Thiệu Trị lại đổi thành Phước Duyên bửu tháp.
Mặc dù trong văn bia Ngự chế Thiên Mụ tự Phước Duyên bảo tháp bi, vua Thiệu Trị có nói việc xây tháp là để "mở rộng duyên lành, phát nguồn ơn trạch khắp mọi chốn"; "tháp cao thì đạo càng cao, phước rộng thì duyên thêm rộng" - lời dịch từ văn bia (Chùa Thiên Mụ - NXB Thuận Hóa), nhưng thực tế lại chỉ ra rằng, việc xây tháp lại không chủ ý về việc quảng bá đạo Phật. Vua Minh Mạng có ý xây bảo tháp tại quốc tự (chùa Thiên Mụ) là để trấn yểm cho Kinh thành, còn bản thân vua Thiệu Trị lại không phải người tin đạo Phật, như chính ông từng thừa nhận :"Ta vốn chẳng phải kẻ sùng đạo, chỉ vì sửng nguyện của dân nên cho lập chùa mà thôi" - lời trong thơ Ngự chế ở bia chùa Diệu Đế - Huế.

Tháp Phước Duyên xây trên một cái nền hình bát giác, tầng dưới lớn, tầng trên thu nhỏ dần. Toàn thân tháp cao khoảng 21m (theo văn bia : tháp cao 5 trượng 3 thước 2 tấc xưa)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5793.jpg
Tháp Phước Duyên

Từ khi được xây dựng đến náy, tháp được trùng tu nhiều lần.
- Năm 1867 (Tự Đức thứ 20) trùng tu lần đầu
- Năm 1899 (Thành Thái thứ 11) trùng tu. Hiện còn tấm bia nhỏ ghi lại việc trùng tu này, đặt ngay sau lưng tháp.
- Năm 1908 (Duy Tân thứ 2), tháp bị sét đánh, có tu bổ lại
- Năm 1959 tháp được đại trùng tu.

Tầng dưới cùng của tháp thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, tầng thứ hai thờ đức Ca Diếp Phật, tầng thứ 3 thờ đức Câu Xá Na Mâu Ni Phật, tầng thứ 4 thờ đức Câu Lưu Tôn Phật, tầng thứ 5 thờ đức Tì Xá Phù Phật (một trong bảy đức Phật của thời quá khứ), tầng thứ 6 thờ đức Thi Khí Phật, tầng thứ 7, trên cùng, thờ đức Tỳ Bà Thi Phật.
Tương truyền rằng, những pho tượng Phật ở tầng trên cùng được đúc bằng vàng ròng, các đồ cúng lễ đều đúc bằng bạc nén. Vì thế, tầng trên cùng này có một cái khóa riêng, ngày xưa, chìa khóa vào tháp và chìa khóa lên tầng trên cùng do bộ Lễ cất giữ. Khi có việc cần vào tháp, phải có lệnh của Ngự tiền văn phòng trong triều đình, bộ lễ mang bộ chìa khóa tới, cùng với vị tăng lữ chức sắc của chùa Thiên Mụ cùng mở của vào tháp. Những việc ấy là để đề phòng sự mất mát với các bảo vật trong tháp. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ năm 1940 đến 1942, vẫn xảy ra vụ mất cắp tượng Phật bằng vàng ròng tại đây. Điều lạ là, tượng Phật bị mất chính xác vào thời điểm nào, không ai biết được, vì cửa dưới của tháp vẫn nguyên vẹn, chỉ khi người ta phát hiện cửa tầng tháp trên cùng bị mở toang (cũng không ai biết nó bị mở từ khi nào, vì nó nhỏ, lại ở trên cao tít), người ta mới mở cửa tháp lên kiểm tra và phát hiện tượng vàng đã mất rồi - theo sách cũ "Ba trăm năm thăng trầm của chùa Thiên Mụ" . Triều đình Bảo Đại khi đó không thể tìm ra thủ phạm.
Các pho tượng còn lại trong tháp đều là tượng đồng, nhưng nhà chùa muốn bảo tồn giá trị lịch sử gần 300 năm của các pho tượng này, nên đã cho đúc các pho tượng bằng thạch cao - theo đúng khuôn dạng của các pho tượng đồng - rồi mạ đồng bên ngoài, để đặt tại tháp, còn các pho tượng cổ đựa đưa vào thờ bên trong điện Bảo Hùng ở trong chùa (việc di chuyển này tiến hành năm 1984)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5790.jpg
Tháp Phước Duyên, nhìn từ lối vào chùa bên tay trái.

Ngay sau lưng tháp Phước Duyên, trước cửa chính của Nghi Môn (cổng vào chùa) có một tấm bia đá, đó là bia của vua Khải Định dựng vào năm 1919 (năm Khải Định thứ 4), nói sơ lược về chùa Thiên Mụ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5792.jpg
Văn bia của vua Khải Định sau lưng tháp, trước Nghi Môn

tunbo
18-07-2009, 10:03 PM
Chùa Thiên Mụ được chia làm hai phần khá rõ rệt. Phần ngoài gồm các bi đình, chuông đồng của chúa Nguyễn, của vu Thiệu Trị, và (dấu tích nền) Hương Nguyện đình, tháp Phước Duyên. Phần trong là các kiến trúc bên trong của Nghi Môn.
Nghi Môn chính là ranh giới của hai phần trong và ngoài. Có một dãy tường thành nằm ngang Nghi Môn, kéo ra tận đến vòng La thành, như một lằn ranh phân chia hai khu vực của chùa.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5804.jpg
Nghi Môn

Nghi Môn có 3 gian, gian giữa có cơi lầu bên trên. Hai bên vách tường mỗi gian đều có đắp tượng các vị Kim Cang Hộ Pháp rất lớn, qua các pho tượng là cửa vào bên trong sân chùa. Ở gian giữa, nhìn từ bên ngoài vào, phía trái có một cái thang gỗ lim để lên lầu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5811.jpg
Gian giữa của Nghi Môn có cơi lầu bên trên(từ sân trong của chùa nhìn ra)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5806.jpg
Tượng Kim Cang Hộ Pháp hai bên vách tường, chiếc thang gỗ lim lên lầu.

Bên trên cửa chính của Nghi Môn có tấm biển gỗ lớn đề ba chữ (Hán tự) Linh Mụ tự rất lớn. Nghi Môn được xây dựng từ năm 1815 - khi Gia Long làm lại chùa Thiên Mụ - nhưng tấm biển gỗ khắc tên chùa nói trên, lại được lưu truyền rằng, tận thời Tự Đức(1847 - 1883) mới có, dù sao, nó cũng đã trên 100 năm tuổi.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5807.jpg
Tấm biển tên chùa - theo truyền thuyết là được làm từ thời Tự Đức.

tunbo
18-07-2009, 10:29 PM
Từ phía tháp Phước Duyên nhìn vào, bên phải Nghi Môn là Gác Chuông, được xây cao trên mặt thành. Đây là một kiến trúc được xây dựng năm 1815 dưới thời Gia Long, tuy đến nay đã được nhiều lần sửa chữa, nhưng vẫn được giữa nguyên vị trí và bảo toàn nguyên dạng cổ xưa

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5805.jpg
Gác Chuông, nhìn từ tháp Phước Duyên vào.

Trong Gác Chuông này là quả chuông đồng được đúc từ thời vua Gia Long. Quả chuông này nhỏ hơn quả chuông của chúa Nguyễn Phúc Chu bên ngoài nhà lục giác nhiều, và nhìn các hoa văn trên chuông cũng có vẻ không được bằng ở chiếc Đại Hồng Chung ngoài tòa nhà lục giác. Ngày xưa giá chuông hoàn toàn làm bằng gỗ, nhưng năm 1976, đế giá chuông đã được làm lại bằng bê tông cốt thép, còn hai thanh giá đứng vẫn là gỗ cũ ngày xưa.
Mặc dù Gác Chuông, hay đế giá chuông đã bị (được) tu sửa hoặc thay thế, nhưng tiếng chuông từ quả chuông này thì vẫn ngân lên suốt từ năm 1815 đến nay. Tiến chuông này nghe rất huyền diệu, người ta nói rằng, nó không giống bất cứ tiếng chuông chùa nào khác. Người ta nói rằng, những hôm thời tiết tốt, xuôi theo chiều gió, tận ngoài phá Tam Giang có khi cũng nghe thấy được tiếng chuông chùa Thiên Mụ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4914.jpg
Gác Chuông nhìn từ phía trong Nghi Môn

Về tiếng chuông chùa Thiên Mụ, cách thỉnh chuông ngày nay đã khác xưa, hiện nay nhà chùa chỉ thỉnh chuông 2 lần/ngày. Buổi sáng sớm từ 3g30 đến 4g, buổi chiều tối từ 19g đến 19g30 - với mùa mưa - hoặc từ 19g30 đến 20g - với mùa khô. Một điều đặc biệt trong âm thanh của quả chuông Gia Long là, càng ở xa bao nhiêu, tiếng chuông ngân nghe càng huyền diệu bấy nhiêu, hơn 190 năm nay vẫn không thay đổi.

tunbo
18-07-2009, 11:04 PM
Ở vị trí đối xứng với Gác Chuông qua Nghi Môn, là Gác Trống, đây cũng là kiến trúc cổ từ thời Gia Long, cùng thời với Gác Chuông, thậm chí những lần trùng tu cũng cùng thời điểm với trùng tu Gác Chuông.
Gác Trông hoàn toàn đối xứng với Gác Chuông, lối cầu thang đi lên Gác Chuông nhìn về hướng Tây, thì lối cầu thang đi lên Gác Trống nhìn về hướng Đông. Các chi tiết hai tòa Gác trông y như nhau.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5803.jpg
Gác Trống nhìn từ phía tháp Phước Duyên vào.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4911.jpg
Nhìn từ phía trong Nghi Môn ra - cầu thang lên Gác Trống cũng đối xứng với cầu thang lên Gác Chuông.

Trong Gác Trống có một chiếc trống cổ khá lớn được đặt trên giá trống. Mặt trống đã rách từ lâu, giá trống cũng đã tróc hết sơn. Điểm đặc biệt là, cái tang trống rất lớn (đường kính chỗ giữa thân tới hơn 1,4m) làm bằng gỗ mít, được làm từ 1 thân cây, chứ không ghép, tuy nhiên tang trống - dày 3cm - hiện đã bắt đầu bị nứt rạn. Truyền thuyết còn lưu lại, nói rằng ngày xưa để có đủ da bịt mặt trống, người ta phải cần đến 2 con trâu đực rất to.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4912.jpg
Trống cổ từ thời Gia Long đặt trong Gác Trống.

Mặt trống đã rách từ lâu, nên cũng không ai còn được nghe tiếng trống này nữa.

tunbo
18-07-2009, 11:15 PM
Qua khỏi Nghi Môn vào phía trong, ngay sau Gác Chuông và Gác Trống là hai dãy nhà 3 gian, gọi là Lôi Gia - đây cũng là các kiến trúc được xây cất từ năm 1815 dưới thời vua Gia Long. Hai nhà Lôi Gia này ngoảng mặt vào nhau, trong mỗi nhà đều có 3 bức tượng Kim Cang Hộ Pháp rất lớn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4890.jpg
Lôi Gia phía bên Gác Trống

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4894.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4895.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4896.jpg
Các bức tượng Kim Cang Hộ Pháp trong các gian của nhà Lôi Gia phía Đông (phía Gác Trống).

Các bức tượng trong hai nhà Lôi Gia cũng như các bức tượng ngoài Nghi Môn, đều được đắp bằng đất sét trộn trấu, rơm, và tất cả 12 pho tượng đều có nét mặt khác nhau, rất sinh động, các nếp nhăn của quần áo cũng rất tự nhiên.

tunbo
23-07-2009, 09:43 PM
Qua cửa Nghi Môn là một khoảng sân rộng lớn với 3 lối đi vào. Hai lối hai bên đi qua phía trước hai dãy Lôi Gia, lối chính giữa băng qua khoảng sân rộng vào tòa điện chính của chùa : Điện Đại Hùng (Đại Hùng Bửu Điện). Mặc dù chùa được sửa chữa và làm lại nhiều lần, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn tin rằng, Điện Đại Hùng hiện nay vẫn nằm đúng chỗ ngày xa xưa nó được dựng lên.
Trong một không gian rộng lớn của chùa, trông Điện Đại Hùng có vẻ thấp, nhưng thực ra nó không thấp, mà vì Điện Đại Hùng là một tòa nhà lớn, nhưng dài quá. Từ Nghi Môn nhìn vào, tòa điện trông cổ kính uy nghiêm, nổi bật lên giữa màu xanh của cây lá xung quanh. (Đại Hùng là một từ để tôn xưng Phật Thích Ca : Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5810.jpg
Điện Đại Hùng nhìn từ của Nghi Môn

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5813.jpg
Từ thềm điện Đại Hùng nhìn ra Nghi Môn, tháp Phước Duyên nổi bật trên nền trời

tunbo
23-07-2009, 10:00 PM
Trên mái điện, có đắp rồng, nhưng những những con rồng này, người ta mới đắp lại hồi đại trùng tu năm 1959. Cả kỹ thuật đắp và mỹ thuật đều bị chê là ... rất kém. Thời đó, ở Huế chắc chắn không phải là thiếu những thợ nề có tay nghề tài năng, nhưng có thể vì nhiều lý do mà các nhà chức trách khi đó đã không thuê họ làm.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4908.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4909.jpg
Rồng được đắp trên mái (và bị chê là tính mỹ thuật quá tệ)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4910.jpg
Ngày xưa, giữa nóc là cái bình hồ lô, nay đã được thay thế bằng cái Pháp Luân có chữ Phật bên trong.

tunbo
23-07-2009, 10:32 PM
Đại Hùng Bửu Điện thực ra là hai toàn nhà lớn xây liền nhau, phía trước là tiền đường, phía sau là chính điện.
Ngay khoảng giữa hai lớp mái điện,là các bức tranh gỗ gồm nhiều hình vẽ kể về sự tích Đức Phật - Những bức tranh gỗ này mới được đưa lên khi chùa trùng tu năm 1958.
Tiền đường để trống, chỉ ở gian chính giữ có đặt một bức tượng đồng Phật Di Lặc rất lớn. Có nhiều thuyết nói về xuất xứ pho tượng này, trong đó có thuyết nói rằng, nguyên khi xưa, tượng được đặt ở chùa Long Quang, thuộc hoàng gia ngày xưa, năm 1918 (Khải Định thứ 3), chùa Long Quang bị triệt bỏ, nên các tượng Phật phải thỉnh về chùa Thiên Mụ trong khoảng năm đó. Tuy sau này dân làng Xuân Hòa (nơi chùa Long Quang tọa lạc) có dựng lại chùa Long Quang, nhưng tượng Phật DI Lặc vẫn để ở chùa Thiên Mụ chứ không dời về lại.
Ngay phía trước tiền đường, từ tượng Phật Di Lặc nhìn ra sân, là một cái lưu đồng lớn, luôn nghi nghút khói nhang

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5843.jpg
Lư hương trước tiền đường điện Đại Hùng. Các bức tranh trên gỗ giữa hai mái điện. Tượng đồng Phật Di Lặc ở giân chính giữa của tiền đường

Cũng ở gian giữa của tiền đường, ngay bên trên, phía sau tượng Phật Di Lặc là bức hoành phi có bốn chữ Linh Thứu Cao Phong, tương truyền chính là thủ bút của Minh Vương Nguyễ Phúc Chu viết năm 1714. Nghiên cứu kỹ các chi tiết trên bức hoành phi và kết hợp với việc sử sách ghi lại về Minh Vương Nguyễn Phúc Chu là "người hiếu học, chữ tôt, có tài lược văn võ" - lời bản dịch Phủ biên tạp luc của Lê Quý Đôn - các nhà nghiên cứu cho rằng, truyền thuyết ấy rất có thể là đúng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4901.jpg
Bức hoành phi, mà được cho là thủ bút của chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu viết năm 1714.

Chính điện ngày xưa là kiểu nhà ba gian, hai chái, nhưng từ sau đợt trùng tu năm 1958, chính điện giờ gồm nguyên hết chiều dài ba gian giữa.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4905.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4906.jpg
Hai gian hai bên của chính điện

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/wonghong33.jpg
Ban thờ ở chính điện - photo by Wonghong, 30/4/2009

tunbo
02-08-2009, 04:47 PM
Sau lưng điện Đại Hùng, ngày xưa (khi Gia Long kiến thiết lại chùa năm 1815) là tòa điện Di Lặc. Với dấu tích nề điện hiện còn lưu dấu, thì điện Di Lặc cũng là một tòa điện rất đồ sộ như điện Đại Hùng. Năm 1904 chù bị cơn bão lớn tràn qua, có thể điện Di Lặc bị sập đổ trong con bão này, cùng với đình Hương Nguyện. Tuy nhiên, người ta đem toàn bộ bộ khung sườn của Hương Nguyện đình về phía sau, dựng tại đúng ở vị trí trung tâm nền điện Di Lặc cũ một tòa điện thờ Quan Công, tức là điện Địa Tạng ngày nay chúng ta thấy.
Hiện tại, khoảng đất trống sau lưng điện Đại Hùng, trước mặt điện Địa Tạng, nhà chùa đã sửa sang lại thành hai mảnh vườn cây ăn quả, và đặt nhiều những chậu cây cảnh.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5815.jpg
Điện Địa Tạng ở phía sau lưng điện Đại Hùng, cách một khoảng sân rộng với nhiều cây cảnh. Dấu vết nền cũ của điện Di Lặc rất rộng, điện Địa Tạng nằm lọt trong nền này.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5819.jpg
Con đường bên trái điện Đại Hùng đi về phía trong chùa.

Nguyên khi xưa, điện này được để thờ Quan Công (từ năm 1907) - một đều khá thường thấy ở các chùa Việt ngày trước, do ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, và cho đến nay, các chùa lớn ở Huế vẫn còn có thờ Quan Công. Theo truyền thuyết, sau khi chết, Quan Công hiển thánh, biết việc âm dương, việc tốt xấu trong tương lai, vì thế mặc dù chùa là nơi thờ Phật, nhưng trong điện thờ Quan Công, người ta còn thờ cả một bộ thẻ xăm, thậm chí sư ở chùa làm luôn việc đoán xăm cho người đến cầu xăm. Người ta lại bày cả những ngựa gỗ, voi gỗ, lọng, các vũ khí thời xưa bằng gỗ,...biến điệ thờ Quan Công mang đầy tính mê tín dị đoan. Chính vì điều thái quá ấy, trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1958, trong dịp đại trùng tu chùa, Hòa thượng Thích Đôn Hậu khi đó đã đưa toàn bộ tượng Quan Công cùng với các ngựa gỗ, lọng,... ra khỏi chùa Thiên Mụ, tòa điện sau khi sửa sang, dùng thờ Địa Tạng.
(Theo Phật giáo, Địa tạng chưa phải là Phật, mà mới chỉ là một vị Bồ Tát có một hạnh nguyên to lớn là đã tự thân hành đi vào tất cả các cửa Địa ngục để giải thoát cho những nghiệp chướng đau khổ đang bị Quỷ sứ tra tấn hành hạ.)

tunbo
02-08-2009, 05:10 PM
Ngay sau lưng điện Địa Tạng là một vườn cây lim và cây đào cao, rồi tiếp đến một tòa điện, là điện Quán Âm. Điện Quán Âm có từ thời vua Gia Long, và cho đến nay, mặc dù đã qua nhiều đợt tu sửa, nhưng không hề bị di chuyển hoặc thay đổi chút nào.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5820.jpg
Diện Quán Âm nằm phía sau điện Địa Tạng, cách một vườn lim và cây đào rất cao

Đây là một tòa điện nhỏ, dường như được xây dựng nên bằng những đồ (gỗ) tận dụng từ các công trình khác, hiện tại, ngoài mấy bậc tam cấp và hàng chữ, nói chung trông tòa điện này khá "mới".

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5825.jpg
Phía sau điện Quán Âm

Cách thờ tự ở đây cũng khá đơn giản. Ở điện có pho tượng đồng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen rất lớn - một trong những pho tượng từ thời xưa còn lưu giữ được.
Phía sân trước của điện Quán Âm cũng có một lư hương bằng đồng đặt ngoài sân

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5837.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5838.jpg
Lư hương trước cửa điện Quán Âm, đường nét chạm trổ cũng khá đẹp.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5834.jpg
Từ điện Quán Âm nhìn ra phía trước chùa : điện Quán Âm - điện Địa Tạng (nhỏ, hơi thụt vào) - điện Đại Hùng.

Cũng từ cửa nách của điện Quán Âm này (cửa này và của phía bên đối diện được công nhận là cặp cửa hoàn toàn cổ xưa, rất có giá trị), tôi chụp được bức ảnh các (không biết chính xác, cứ tạm gọi) chú tiểu đang đọc sách bên trong :

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5839.jpg

jimmy nguyen
03-08-2009, 08:31 AM
Bác Tun giải thích Địa Tạng Bồ Tát chưa rõ lắm, Jim giải thích thêm:
Tại Trung Quốc và các nước Đông nam Á, Địa Tạng được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quán Thế Âm, Văn-thù-sư-lợi và Phổ Hiền) chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục.
Trước đây vô lượng kiếp, Địa Tạng là một Bà-la-môn và đã thệ nguyện trước một vị Phật thời đó là sẽ quyết tâm tu luyện đạt Phật quả, nhưng sẽ khước từ Phật quả này khi chưa cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi Luân hồi.
Vì vậy Địa tạng chính ra đã là một vị Phật nhưng khước từ vì cảm thấy chưa cứu độ được chúng sinh thoát khỏi Luân hồi
Ở Việt nam và các nước Đông Nam Á hình dáng Địa Tạng bồ Tát có khác nhau. Ở VN ngoài trong chùa Địa Tạng Bồ Tát còn thường được thấy thờ ở các nghĩa trang với hình dáng từa tựa như nhân vật "Tam Tạng" trong "Tây Du Ký"

tunbo
03-08-2009, 04:10 PM
Hihi, về Địa Tạng, mình nói sơ sơ, vì đang nói về chùa, chứ thực ra cũng có tí tài liệu về ngài.

Tại Ấn Độ, ngài có tên là Ksitigarbha. Khi đạo Phật du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc dịch tên ngài thành Ti-tsang Wang P'ou Sa, khi phiên âm sang tiếng Việt, người Việt gọi là Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Theo niềm tin của tín đồ Phật giáo Đại Thừa, thì ngài là vị Bồ Tát mang một hạnh nguyện lớn lao là, tự mình đi vào tất cả các cửa Địa ngục để giải thoát cho tất cả những nghiệp chướng đau khổ đang bị hạng quỷ sứ Yen-Lo-Wang (người Việt gọi là Diêm La Vương, tức Yamaràja của Ấn Độ) tra tấn hành hạ.

Tại Trung Quốc, ngài Địa Tạng được thờ ở Kieou-Houa-Shan (Cửu Hoa Sơn), tỉnh Ngan Houei (An Huy) phía Nam Trung Quốc. Theo quan niệm phong thủy của người Trung Hoa, Cửu Hoa Sơn biểu thị cho hành Thổ - tiếng Trung đọc là Ti, người Việt đọc là Địa. Người trấn thủ phương vị Địa, được gọi là Địa Tạng Vương, coi về việc có liên quan đến Địa Ngục - tiếng Trung đọc là Ti-yu .
Về việc ngài chưa thành Phật, trong Kinh Phật có trích dẫn câu nói của ngài : "Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật" (Các cửa địa ngục chưa trống rỗng, ta thề chưa thành Phật vội)


(Sưu tầm linh tinh - không phải trên mạng)

tunbo
03-08-2009, 11:14 PM
Ngay sau lưng điện Quán Âm là một sân cỏ rất rộng, có một cái hồ chữ nhật nho nhỏ gần phía điện Quán Âm được trồng súng. Ở phía cuối của thảm sân cỏ này, có đặt một số tiểu cảnh bằng đá.
Đi qua khỏi thảm sân cỏ này, đến khu vực mộ tháp của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu - trụ trì chùa Linh Mụ từ năm 1945.Khu vực xung quanh khuôn viên khu mộ được trồng thông xanh ngút mắt.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5821.jpg
Sau lưng điện Quán Âm là một thảm sân cỏ rất rộng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5822.jpg
Có một cái hồ nhỏ hình chữa nhật, trồng súng, xa xa là khu mộ tháp cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5827.jpg
Một cụm tiểu cảnh ở góc sân cỏ, gần tháp mộ.

Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905 - 1992) pháp danh là Trừng Nguyên, hiệu là Đôn Hậu, thế danh là Diệp Trương Thuần, người làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được pháp hiệu là Phước Điền, khai lập chùa Long An (Quảng Trị) và kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu, mất sớm khi Ngài vừa lên 9 tuổi.

Năm Ngài lên bảy, một hôm Tổ Tâm Tịnh về quê, đến nhà thăm, thấy Ngài diện mạo khôi ngô bèn tỏ lòng ưu ái, huyền ký cho Ngài con đường xuất thế. Nghe vậy cụ ông vui mừng khôn xiết, đặc biệt lưu tâm đến việc học hành của Ngài, liền mời thầy về nhà dạy riêng, để un đúc tương lai cho Ngài với lòng ước mong được như lời Tổ dạy.

Năm 17 tuổi (1922 - Nhâm Tuất), sau mười năm đèn sách, Ngài đã làu thông Nho học. Nhưng tư tưởng về nhơn sanh vũ trụ và phương pháp lập thân xử thế của Lão, Nho đã không làm thỏa mãn được lý tưởng của người thanh niên trí thức ấy khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Phải chăng còn có một chân lý, một lý tưởng cao siêu hơn các nguyên lý Khổng Mạnh mà Ngài đã gặp? Cho đến khi được song thân nhắc lại việc Tổ Tâm Tịnh đã huyền ký ngày xưa, Ngài mới nghĩ đến con đường xuất gia học đạo.

Điều này khiến cho chí xuất trần của Ngài trưởng thành. Năm 19 tuổi, ngày 19 tháng 6 năm Quý Hợi (1923) được sự chấp thuận của phụ thân, Ngài vào chùa Tây Thiên đảnh lễ Tổ sư Tâm Tịnh, xin được xuất gia tại đây.

Một năm sau, cũng đúng vào ngày vía Quan Âm (ngày 19 tháng 6 năm Giáp Tý - 1924), nhờ học hạnh kiêm toàn và chí nguyện xứng đáng, Ngài được đặc cách cho thọ tam đàn Cụ Túc tại Giới đàn chùa Từ Hiếu, do chính Bổn sư làm đàn đầu. Thọ giới được hai năm thì Bổn sư viên tịch (1926), Ngài bèn đến chùa Hồng Khê cầu pháp với sư huynh là Hòa thượng Giác Tiên.

Năm 1927, Ngài được 22 tuổi, trường Phật Học Thập Tháp tại tỉnh Bình Định khai mở, do Tổ Phước Huệ - bậc danh Tăng nổi tiếng làm Giáo thọ, Ngài cùng một số vị khác như Hòa thượng Chánh Huy, Chánh Thống, Viên Quang vào đây tham học.

Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, trường Trung học, Đại học Phật giáo được mở tại Tây Thiên, Tổ Phước Huệ được cung thỉnh từ Bình Định ra làm giáo thọ. Với tinh thần hiếu học cầu tiến không ngừng, Ngài tiếp tục theo học chương trình Đại học tại đây và được bầu làm Thủ chúng cả hai trường. Ngài cũng làm Giáo thọ cho Phật học đường Báo Quốc và Ni viện Diệu Đức - Huế.
Ngay từ lúc còn ngồi ghế Đại học tại Tây Thiên, Ngài được mời làm Giảng sư của Hội An Nam Phật Học. Năm 1936, tốt nghiệp Đại học Phật giáo, với tuổi 32, Ngài được mời làm Giáo sư cho Phật học đường Báo Quốc và Luật sư cho Sơn môn Thừa Thiên, từ đó Ngài đã trở thành một hạt nhân tích cực của phong trào chấn hưng Phật giáo, và là giảng sư nòng cốt, tiền phong của Hội Việt Nam Phật Học. Ngài đã đi giảng dạy khắp các tỉnh miền Trung, nhất là tại Đà Nẵng và Quảng Nam.

Năm 1940 và 1942, Ngài hai lần sang thuyết giảng ở một số tỉnh có đông Việt kiều tại Lào, đàm đạo với vua Sãi và tham lễ tại một số nơi ở Vương quốc Phật giáo này.

Năm 1945, Ngài thay thế Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật Học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, Ngài nhận chức trụ trì Quốc Tự Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, Ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên hiệp Trung bộ.

Năm 1947, cùng chung số phận với hàng loạt các cơ sở Phật giáo cả nước, chùa Linh Mụ cũng bị Pháp đánh phá và chiếm đóng. Ngài bị Pháp bắt, tra tấn và sau cùng bắt tự đào huyệt chôn mình và suýt bị bắn chết, may nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) can thiệp mới được thả.

Năm 1948, Ngài làm cố vấn đạo hạnh hội Phật học Trung phần và Tuyên luật sư Đại giới đàn Báo Quốc - Huế. Năm 1949, Ngài thay cố Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định giữ chức Chánh hội trưởng Tổng Trị sự hội Phật học Trung phần.

Năm 1951, Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, sau đó được Sơn môn Tăng già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952, Giáo Hội Tăng Già toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, Ngài được suy cử làm Giám luật.

Năm 1956, Ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được chuyển thành Liên Hoa nguyệt san cũng do chính Ngài làm chủ nhiệm.

Năm 1963, Ngài tham gia đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đêm pháp nạn 20 tháng 8 năm 1963, Ngài bị bắt tại chùa Diệu Đế và bị đưa đi giam giữ.

Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài được cử làm Chánh Đại Diện miền Vạn Hạnh.

Năm 1965, Ngài được cung thỉnh làm Yết ma A Xà Lê Đại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế.

Từ năm 1968, Ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Ngài vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài lại càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Đạo ích Đời.

- Tháng 1/1968: Phó Chủ tịch Liên minh các lực lượng Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam. Tháng 6/1968: Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

- Năm 1970, đi tham quan văn hóa, tôn giáo ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Đại hội thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa Bình.

- Năm 1975, miền Nam được giải phóng, Ngài trở về chùa cũ (Linh Mụ) và sau đó được mời làm cố vấn cho Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

- Năm 1976, Ngài đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cũng chính trong năm này, Ngài được mời giữ chức Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Từ năm 1976 đến 1986, liên tục trong mười năm liền, Ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở Huế tại các chùa Linh Mụ, Báo Quốc và Linh Quang.

Năm 1977, Đại hội kỳ VII Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang. Ngài được suy cử vào Hội đồng Trưởng Lão của Giáo Hội và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.

Năm 1979, đức Đệ nhị Tăng Thống - Hòa thượng Thích Giác Nhiên - viên tịch, Đại hội kỳ VIII chưa tổ chức được, Hội đồng Lưỡng Viện bèn cung thỉnh Ngài kiêm chức vụ Xử lý Viện Tăng Thống.

Năm 1981, Đại hội Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội, đã suy cử Ngài vào Hội đồng Chứng minh với chức vụ Đệ Nhứt Phó Pháp Chủ kiêm Giám luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Năm 1977, 1981 và 1983, ba lần Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới đàn tại chùa Báo quốc và Trúc Lâm - Huế.

Ở tuổi ngoài bát tuần, sức khỏe của Ngài đã giảm sút rất nhiều, thân ngũ uẩn như chiếc xe cũ, đèn dầu cạn, nhân duyên hội họp đã mãn. Hóa duyên đã tròn, Hòa thượng an nhiên thu thần hội nhập vào cảnh giới an lạc tịch tĩnh vào ngày 23/4/1992 (nhằm ngày 21/3 Nhâm Thân) tại Tổ đình Linh Mụ thành phố Huế, trụ thế 88 năm, trải qua 68 mùa An cư kiết hạ...

Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu - nguồn PhatViet.net

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5826.jpg
Sân rộng trước khu tháp

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5829.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5830.jpg
Mộ tháp Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu - trụ trì chùa Thiên Mụ từ 1945.Xung quanh là rừng thông xanh ngút.

tunbo
03-08-2009, 11:26 PM
Từ ngoài Nghi Môn đi vào chùa theo lối bên tay trái, qua khỏi điện Đại Hùng, ở tầm ngang với điện Địa Tạng, cũng về phía tay trái, là một tòa nhà dài, nơi sinh hoạt của các vị tăng lữ trong chùa.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5816.jpg
Tòa nhà nằm dọc theo hướng đi vào chùa, bên tay trái, ngang chỗ điện Địa Tạng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5818.jpg
Trai đường.

Từ đây, có một lối nhỏ đi xuôi về phía tháp mộ cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, con đường nhỏ lát bê tông chạy dưới hàng cây mát rượi. Đoạn trên hình như là cây lim - trông giống mấy cây sau điện Địa Tạng. Đến khoảng giữa thảm sân cổ sau điện Quán Âm, con đường nhỏ bẻ ra gặp đường lớn từ ngoài chùa đi vào, cũng từ chỗ đó là rừng thông.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5823.jpg
Con đường nhỏ dưới tán cây.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5824.jpg
Bộ bàn ghế đá dưới tán thông xanh mướt.

tunbo
04-08-2009, 12:19 AM
Cũng trong huyền thoại Thiên Mụ ngày xưa,ngoài việc làm chùa, bà lão trong huyền thoại còn nói đến việc cầu linh khí trở về - ý nói đến việc san bằng vết trấn yểm của Cao Biền thuở trước. Không biết về việc đó, khi xưa Nguyễn Hoàng đã làm như thế nào, nhưng đến nay có một huyền thoại về phế tích con rùa ở chùa Thiên Mụ.
Hiện nay ở ngoài vòng thành của chùa có một cái hồ nhỏ, được gọi là Bình hồ. Trên bờ phía Tây Nam của hồ, góc Tây của chùa Thiên Mụ, có một phế tích có hình dạng của một con rùa. Có ba thuyết chính về phế tích con rùa này đều liên quan đến việc trấn yểm long mạch của đồi Hà Khê.

Thuyết thứ nhất : kể đại ý rằng, trên bờ của Bình hồ có một tảng đá lớn trông giống hệt một con rùa. Tương truyền khi chùa xây xong, có con rùa từ sông trước bò ngang qua chùa để ra phía sau, nhưng gần tới hồ thì trời nổi cơn giông tố, sét đánh chết con rùa, và biến con vật thành phiến đá.

Người ta giải thích rằng, khi Nguyễn Hoàng làm xong chùa, tức là có động đến việc hoàn nguyên long mạch, nên phù phép trấn yểm xưa của Cao Biền hết linh, con rùa yểm phải trồi lên bò qua chùa sang hồ, để rồi bị trời đánh chêt :D - một kiểu lý giải rất ... dân gian, vì các tài liệu sau này nói rằng, phế tích hình con rùa ấy không phải bằng đá, mà được xây bằng vôi gạch.


Thuyết thứ hai : thuyết này cho rằng cái hồ ở sau chùa Thiên Mụ là do người địa phương đào để yểm lại, ngoài việc đào hồ, người ta còn đắp bằng vôi gạch bên cạnh hồ một con Rùa Mốc lớn. Đắp Rùa mốc, vì ngày xưa, người ta dùng từ "Rùa mốc" để ám chỉ những việc không đáng sợ, không đáng lo ngại.

Thuyết này có một số điểm hợp lý, nói đúng về thực tiễn phế tích, lại nói lên được tinh thần phản kháng mạnh mẽ của dân ta chống lại sự phá hoại về mặt tâm linh của kẻ địch. Tuy nhiên nó cũng có những điểm bất hợp lý, vì Rùa vốn là một loài linh vật từ xưa, khi An Dương Vương dựng nước, rồi sau đến Lê Lợi đuổi giặc Minh, cũng có truyền thuyết về Rùa Vàng cho mượn gươm báu. Vì thế, nếu theo thuyết này, tại sao người xưa lại đắp tượng con rùa vĩ đại đến thế - nếu với ý nghĩa khinh thường, kiểu "đồ rùa mốc"?


Thuyết thư ba : nghe có vẻ ít màu sắc huyền thoại nhất, người ta nói rằng, Con rùa này do nhà chùa đắp nên, vì ngày xưa trong chùa có 2 con rùa thường xuống uống nước dưới Bình hồ. Một hôm, chỉ có 1 con về lại chùa, người ta đi tìm và thấy nó nằm chết bên hồ. Nhà chùa bèn chôn con rùa ngay chỗ đó, và đắp lên trên một tượng rùa lớn, ghi dấu lại nơi con vật quý đã chết.

Mầy mò bao nhiêu tài liệu linh tinh về chùa Thiên Mụ, biết được có cái phế tích rùa này, nhưng lúc đến Huế thì lại không đến xem được. Một phần vì lúc quay lên đến khu nhà ở của các tăng lữ (đúng phía Tây chùa) để tìm cách ra ngoài vòng thành, thì trời bỗng đổ mưa - trong dịp cả nước nóng như rang, hơn nữa, lúc ấy tự dưng bị chuột rút (vọp bẻ), không tài nào quốc bộ được nữa, ngồi núp mưa xong thì trời đã sập tối, đành về, để lần sau ghé chùa,sẽ lại tìm xem sau vậy.

Kết thúc Part 1 trong 28 giờ ở Cố đô Huế

tunbo
06-08-2009, 10:59 PM
Cuộc đi bộ ở chùa Thiên Mụ buộc phải kết thúc đột ngột vì cơn mưa lớn đổ xuống, và cái cẳng bị chuột rút. Cũng lạ, trong vòng hơn 10 ngày trước đó, khắp nơi nóng kinh khủng, Huế cũng không phải ngoại lệ, hai, ba hôm trước nhiệt độ cũng lên lới 36 độ C, và ngay ngày hôm ấy, khi tôi đặt chân đến Huế vào đầu giờ chiều, cũng nắng đến hoa cả mắt. Nhưng rồi cuối chiều thì mưa tới, tầm tã. Part 1 kết thúc sau 2 giờ đồng hồ.
Mưa dứt ở chùa Thiên Mụ, lên xe ôm quay về khách sạn (cũng chính là cái nhà khách Quân đội mà đoàn đi tour 30/4/2009 ghé ở). Nhưng mới chạy ngang Kinh thành Huế, thì lại bắt đầu mưa trở lại, đành tấp luôn vào núp mưa dưới Ngọ Môn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5852.jpg
Mưa lại bắt đầu trở lại.

Dường như vừa qua đợt nắng nóng kéo dài, nên mọi người khá vui khi có mưa xuống. Chỉ có một kẻ cảm thấy xui xẻo. Nhưng cũng trong cái xui rủi, cũng có cái may. Đứng núp mưa ở ngay dưới cổng Ngọ Môn, y chộp được cầu vồng phía trên Kỳ đài Huế.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5856.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5857.jpg

Đây là những hình ảnh ... chuyển tiếp giữa buổi chiều với buổi đêm. Buổi chiều là lung linh cầu vồng trên Kỳ đài Huế, ban đêm là lung linh cấu Tràng Tiền trên sông Hương.

tunbo
06-08-2009, 11:22 PM
Ở một thành phố lạ một mình, nếu nằm không thì thật là phí. (Đối với tôi, đến lúc ấy Huế vẫn là một thành phố lạ, bởi mặc dù đã đi qua Huế khá nhiều lần, nhưng đây mới là lần thứ hai dừng lại Huế, lần đầu là ở tour 30/4/09 vừa qua, trong khi Đà nẵng thì không thể nói là lạ được). Vì thế, mặc dù lúc ở chùa Thiên Mụ bị chuột rút, nhưng sau khi về tắm rửa và nạp ... nước lọc, lại lên đường ra phố. Bắt buộc phải ra phố, vừa là đi xem Huế đêm, vừa là vì chưa măm gì, mà cũng đã gần 19g30 - không phải là ... quá sớm cho bữa chiều nữa.

Đúng đêm bế mạc Festival các Làng nghề Huế - 2009, lại đúng vào tối chủ nhật. Đường phố đầy màu sắc. Lại được thêm cơn mưa mát mẻ ban chiều, nên khi bước ra đường, thấy người đông quá.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5885.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5884.jpg
Đám rước lân, rồng với chiêng trống ầm ầm ở góc ngã tư Hùng Vương - Lê Lợi, ngay đầu cầu Tràng Tiền

Vì thấy đám rước lân, rồng đèn đuốc còn dài trên đường Lê Lợi, phía thượng nguồn sông Hương, nên trong lúc bị xô đẩy theo dòng người (đang ùn lại vì bị công an chặn đường, ưu tiên cho đám rước Bế mạc Festival), cứ bị "trôi" dần ra phía bờ sông. Đang tìm cách chen trở lại thì thấy cầu Tràng Tiền rực rỡ trong ánh đèn màu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5888.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5891.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5893.jpg
Tiện thể, bắn luôn mấy phát, vì nghe người ta nói rằng, hôm nay có Festival nên mới chiếu đèn màu.

tunbo
06-08-2009, 11:32 PM
Đi tới đi lui, nhưng người đông quá, chụp ảnh bị nhòe, tìm cách chen lại lên ngã tư được, thì đám rước đã qua cầu gần hết.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5883.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5886.jpg
Còn cái đuôi của đám rước.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5887.jpg
Mấy cái đầu rồng cuối cùng đang chạy theo đoàn phía trước.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5894.jpg
Người đã vãn, chân lại bắt đầu mỏi mỏi, nên lại quay xuống bờ sông rình màu để chụp cầu.

tunbo
08-08-2009, 09:22 PM
Sau khi bắt đầu thấy chân đau trở lại, mới chợt nhớ là ... đói quá, đã gần 20g30 rồi mà chưa măm gì. Gọi cho ku Tráng (đang ở Đà Nẵng) để hỏi chỗ ăn, ku chỉ cho cuốc bộ tóe mồ hôi, đến nơi người ta đã dọn hàng, gọi tiếp, nghe hướng dẫn ... nhức cả đầu, nên ngoắc phát xích lô cho ... lành (hy vọng thế). Một cuốc xích lô vòng khắp Huế (tất nhiên với người chưa thạo đường Huế như mình, thì làm sao biết thế nào là đủ một vòng Huế, nhất là ban đêm nữa) chỉ đòi có 50.000đ, thế là Ok.
Đầu tiên là yêu cầu chở đến chỗ ăn đã, hehe. Vì đói và mệt - do vừa cuốc bộ tìm quán ăn hụt - nên chỉ ngồi ngắm Huế đêm thôi, đúng dịp lễ hội, nên phố xá cũng chăng đèn kết hoa rực rỡ. Phố xá ở Huế có vẻ giống với ở hà nội cách đấy mười mấy năm, cũng nhỏ, hẹp, nhiều cây và các cửa hàng lấn ra vỉa hè.

Ăn xong lại tiếp tục XếloTour, nhưng chụp ảnh đêm khi xe đang cahyj lóc xóc thật không dễ ăn, vì ... tất cả ảnh đều tèo hết. Chỉ còn một lô ảnh chụp cầu Tràng Tiền từ trên cầu Phú Xuân là con nhìn tạm tạm (vì thế Part 2 toàn ảnh cầu Tràng Tiền đêm)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5905.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5909.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5912.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5913.jpg
Các đèn màu được cho chạy đuổi nhau, nên cây cầu đổi màu liên tục.

tunbo
08-08-2009, 09:25 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5914.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5918.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5924.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5925.jpg
Lúc này còn đang sơm, phía bờ Nam sông Hương còn bật các cụm đèn lớn.

tunbo
08-08-2009, 09:32 PM
Xich lô qua cầu Phú Xuân, sang bờ Bắc sông Hương.
Bờ Bắc sông Hương vốn là phần đất có Kinh thành Huế xưa, có thể coi sông Hương chia Huế ra làm 2 phần : phía bờ Bắc là phần thành phố cổ, cũ; phía bờ Nam là thành phố mới với các con đường dài, rộng và các cao ốc đang xuất hiện ngày càng nhiều.

Tất cả các tấm ảnh chụp phố ở bờ Bắc sông Hương, cũng tèo sạch :)), chỉ còn mấy cái chụp cổng Ngọ Môn là nhìn còn đỡ đỡ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5930.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5932.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5933.jpg
Ngọ Môn về đêm

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5926.jpg
4 khẩu thần công (hình như cái cửa gần đó là Cửa Ngăn - nhờ ku Tráng hiệu chỉnh cho đúng nhé)

tunbo
08-08-2009, 09:44 PM
Lúc qya lại bờ Nam sông Hương cũng đã khuya, gần nửa đêm, cũng qua cầu Phú Xuân, để ngắm lại cầu Tràng Tiền lần nữa. Đêm về khuya, đèn được tắt bớt, xung quanh cũng đã bớt hẳn ánh đèn trên con đường Lê Lợi. Lại thấy cầu Tràng Tiền lung linh theo một ... cách khác, nên lại nhảy xuống chụp mấy chụp :

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5935.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5937.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5941.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5942.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5945.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5946.jpg
Cầu Tràng Tiền lúc nửa đêm.

Đúng là "Lung linh cầu Tràng Tiền", toàn chụp được có mỗi cây cầu, những tấm ảnh đó là kết thúc của Part 2, vì ngay sau đó, tay Xích lô bắt đầu có những đề nghị ... không phù hợp, nên phải bảo y đưa trở lại Trần Cao Vân, ngồi uống thêm chai bia cho dễ ngủ, hehe. Ở Huế đã hơn 10 tiếng.

tunbo
31-08-2009, 10:45 PM
Sau một giấc ngủ ... thẳng cẳng :D, y hẹn với tay xe ôm, 5g30 đã lò dò gọi Lễ tân để trả phòng (vì biết sẽ đi một mạch đến lúc rời khỏi Huế). Nhưng vác theo một cái balo to đùng mà cuốc bộ đi mấy khu lăng và Đại Nội, thì cũng chết, nên tuy trả phòng, nhưng lại tiếp tục gửi đồ ở Lễ tân.
Có một điều thú vị, chị Lễ tân cứ nhìn một cách ... soi mói, và hỏi :
- Em đã đến nghỉ ở đây lần nào chưa?
- Dạ, em ở đây hồi 30/4 vừa rồi.
- Ah - chị ta la lên - mặt đầy râu, đi với đám moto hả?
Thế là : "Cứ gửi vô tư đi em, lấy vé đi Hà Nội chưa, hay để chị đặt vé cho luôn, chiều vòng qua lấy đồ rồi nó đến đón ở đây". Sau vài phút điện thoại, thế là có vé, xe chạy 18g. Càng yên tâm vác máy đi chơi.

6g sáng, trời đã thấy oi bức nóng nực. Tay xe ôm tận lúc đó mới ló ra, cười :
- Hôm qua anh giai cuốc bộ đến mức chuột rút, mà sáng dậy sớm thế?
Đầu tiên, lo thiếu thời gian, tính đi lăng ngay, nhưng đường tới cụm lăng lại đi ngang qua đàn Nam Giao, thế là ... tạt ngang.

Tài liệu về đàn Nam Giao thì nhiều, nhưng lần này, tôi lược trích tài liệu viết về đàn Nam Giao và lễ tế Nam Giao dưới con mắt của một người phương Tây : Léopold Cadière - một người Pháp đã gần như sống và làm việc, nghiên cứu cả đời ở Việt Nam (63 năm), và đã chết ở Huế năm 1955.

Cảm thức về quyền năng tối thượng của Trời đã ấn dấu sâu xa trong tâm thức tôn giáo người Việt. ngôn ngữ bình dân không thiếu những dẫn chứng bày tỏ niềm tin vào quyền lực của Trời : người ta viện dẫn Trời như một nhân chứng, kêu đến Trời như một quan án, cầu Trời như một vị cứu tinh. Trời thấu suốt mọi chuyện, Trời phán xét và trừng phạt, Trời nhân từ, Trời yêu thương, Trời tác sinh, Trời bảo vệ : Trời làm chủ vận mạng nhân sinh.
Tuy vậy, các biểu lộ thờ Trời lại khá hiếm hoi. Nhiều nơi thì ý niệm về Trời bao la, thông suốt, toàn năng lại được ẩn dấu và thu nhỏ trong những hình thái mông lung, mơ hồ của chư thần lão đạo, tuy vậy lại được thường xuyên thờ cúng. Đôi khi, vào lúc tuyệt vọng, khi con người kiệt lực mà thần thánh cũng vô phương thì tâm hồn người Việt lại hướng về Trời bằng những động thái tín ngưỡng tuyệt đẹp bởi vì vô cùng đơn giản.
Có lẽ việ tế Trời được tập trung nhiều nhất trong việc Tế Nam Giao. Trong nghi lễ này, việc tế tự mang sắc thái hoành tráng uy nghi tương xứng với sự cao cả của Đấng tôn thờ, thể hiện sự tinh tuyền của niềm tin vào Trời, phản ánh những tâm tình sâu lắng mà Trời khơi dậy trong tâm hồn họ. Hoàng đế được xem như vị thừa ủy, đại diện của toàn dân : nhân danh hết thảy thần dân, ông ta phủ phục, dâng tế, tạ ơn và cầu khẩn. Nếu như niềm tin vào quyền năng cao cả của Trời là cao quý nhất, thuần khiết nhất của toàn bộ tín ngưỡng người Việt, thì việc Tế Nam Giao thể hiện một cách trang trọng tín ngưỡng ấy cũng là hành vi cao cả nhất của việc sùng bái tôn thờ của họ.

tunbo
01-09-2009, 09:33 AM
Các đàn tế Trời ngày xưa được gọi là đàn Nam Giao (cái này hình như dùng theo từ của người Trung Hoa, việc xuất xứ tên gọi này và các vấn đề xung quanh nó thực ra rất dài dòng và ... lằng nhằng. Tài liệu thì cũng có, nhưng mà đi sâu vào mấy vấn đề đó là việc của các nhà nghiên cứu văn hóa). Đàn Nam Giao được lập nên để các vua chúa phong kiến ngày xưa tế Trời. Ở Việt Nam hiện còn các di tích :
- Đàn Nam Giao Huế (triều Nguyễn)
- Đàn Nam Giao SƠn Tây
- Đàn Nam Giao nhà Hồ (ở Thanh Hóa)
- Gần đây người ta còn phát hiện dấu tích Đàn Nam Giao triều Tây Sơn ở Bình Định.
Trong số đó, Đàn Nam Giao Huế là di tích hiện còn nguyên vẹn nhất.
Đàn Nam Giao (Huế) đầu tiên được xây dựng vào năm 1803, đặt tại làng An Ninh, thời vua Gia Long. Năm 1806, đàn được dời về phía nam của kinh thành Huế, trên một quả đồi lớn thuộc làng Dương Xuân, nay thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/KhngnhnNamGiao.jpg
Không ảnh Đàn Nam Giao - sưu tầm Internet

Đàn tế được xây 3 tầng chồng lên nhau, tượng trưng cho Thiên - Địa - Nhân.
- Tầng dưới cùng: hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ, tượng trưng cho con người. Có kích thước 165x165 m, nền cao 0,85 m.
- Tầng giữa : hình vuông – Phương Đàn – tượng trưng cho Đất, lan can quét vôi màu vàng.Kích thước 83×83 m, cao 1 m. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc.
- Tầng trên cùng: hình tròn – Viên Đàn – tượng trưng cho Trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh. Đường kính 40,5 m cao 2,8 m. Trên nền Viên Đàn có lát những phiến đá Thanh được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc.

Cả ba tầng đều trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xung quanh ba tầng đàn này còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới trước khi tế vài ngày), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng tế), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5947.jpg
Đàn Nam Giao nhìn từ cổng vào chính hiện nay.
(Về nguyên tắc phong thủy ngày xưa, cổng chính của đàn tế Nam Giao phải quay về hướng Nam, nhưng cổng chính hiện tại của đàn lại quay về hướng Bắc, và ở hướng này, tôi không thấy tấm bình phong như ở 3 cổng kia - không hiểu nó bị phá đi hay là sao, cũng không hiểu ngày trước người ta tiến vào hành lễ tại đàn tế bằng lối hiện tại, hay đi vòng xuống cửa phía Nam để vào. Vì đứng trên Viên Đàn nhìn ra cổng phía Nam, thấy rừng thông quây kín đàn tế, trong khi một số bức ảnh tư liệu ngày xưa cho thấy sân hành lễ phía dưới đất có lát gạch - giống như sân ở lối vào cửa bắc hiện tại)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5948.jpg
Ba tầng đàn tế Nam Giao nhìn từ cổng vào.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5950.jpg
Phương Đàn và Viên Đàn - nhìn từ tầng dưới cùng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5951.jpg
Viên Đàn - nhìn từ Phương Đàn

tunbo
01-09-2009, 11:05 AM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5952.jpg
Trên Viên Đàn nhìn ra cửa phía Bắc (cửa chính hiện tại)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5953.jpg
Cửa phía Tây (bức bình phong mờ mờ)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5954.jpg
Cửa phía Nam
(giờ nhìn lại mấy tấm này, thấy các lối lên đàn tế đều lát gạch cả, ở lối lên đàn từ phía Nam, trên nền Phương Đàn còn thấy 4 lỗ, chắc để chôn cột dựng lều)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5955.jpg
Cửa phía Đông. Bóng núi xa xa, chính là núi Ngự Bình.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Traicung.jpg
Trai cung - ảnh sưu tâm Internet.
(tài liệu nói Trai cung nằm ở phía Tây Nam đàn tế - nhưng lúc leo lên Viên Đàn, chả thấy gì, có thể do vướng rừng thông)

Khuôn viên xung quanh đàn tế có rất nhiều cây thông mọc như rừng, xanh ngắt. Tương truyền, ngày xưa vua Minh Mạng trong một lần tế lễ Nam Giao, đã tự tay trồng 1 cây thông, và lệnh cho các quan cũng phải trồng cây thông vào đó mỗi dịp lễ tế. Sau này (ngày nay) người ta vẫn trồng thêm bổ sung và chăm sóc chu đáo.

tunbo
04-09-2009, 11:33 PM
Thời kỳ đầu triều Nguyễn, mỗi năm một lần, triều đình cho tổ chức lễ Tế Nam Giao vào tháng 2 âm lịch. Từ năm 1890 trở về sau, lại quy định cứ ba năm mới tổ chức một lần.

Vào ngày đầu của lễ tế, triều đình tổ chức một đoàn ngự đạo cho lễ tế với nhiều thành phần như hoàng thân quốc thích, quan lại, binh lính đầy đủ tất cả các loại phẩm phục, áo mão, nghi trượng, cờ quạt, tàn lọng… Đoàn ngự đạo chia thành 3 tốp: tiền đạo, trung đạo và hậu đạo với số lượng thành phần được huy động khá đông từ khoảng trên 1 ngàddeeens gần 5 ngàn người tùy theo mỗi giai đoạn. Những lần tế giao cuối thời Nguyễn số lượng và thành phần tham gia lễ tế giảm lược rất nhiều.

Vào 8 giờ sáng, từ Hoàng Thành, nhà vua ngồi ngự liễn theo đoàn ngự đạo lên Nam Giao để trai giới chuẩn bị cho cuộc tế. Tại Trai Cung, chỗ vua ngự có đặt một tượng đồng nhỏ gọi là tượng đồng nhân, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Nhà vua ngồi đối diện với pho tượng đồng nhân như đối diện với chính mình, bản thân nhà vua luôn phải giữ những suy nghĩ thanh tịnh, lòng thành kính luôn hướng về trời đất.

Ngày hôm sau, lễ tế sẽ chính thức diễn ra từ 2 giờ sáng, vua rời Trai Cung, đến đàn làm chủ tế. Lễ tế ở Viên Đàn tiến hành trước khi tế ở Phương Đàn. Trình thức của lễ tế Nam Giao hết sức phức tạp với hàng trăm nghi tiết khác nhau. Gắn liền với những nghi tiết của lễ tế là các mục như cử Đại nhạc, nhạc Bát âm, múa Bát Dật… Gắn với từng các nghi tiết của lễ là nội dung của các nhạc chương được trình tấu như An thành chi chương, Triệu thành chi chương, Mỹ thành chi chương, Đoan thành chi chương, Vĩnh thành chi chương, Lai thành chi chương… Đây là những bài bản có ca từ bằng chữ Hán, tất cả các bài đều gắn với chữ Thành với ý nghĩa là thành công.

Toàn bộ các nghi tiết trong lễ tế kéo dài đến khoảng 8 tiếng đồng hồ. Sáng hôm sau, các quan làm lễ khánh hạ, lạy mừng vua hoàn tất lễ. Sau đó đội hình của đoàn ngự đạo lại được tổ chức trở lại như cũ (cũng gồm ba đạo với trật tự như khi lên Trai Cung) bắt đầu hồi cung… Trong những màu sắc rực rỡ, trong những âm thanh rộn rã… đoàn ngự đạo lộng lẫy, uy nghi trở về Hoàng Thành. Khi vua về đến Đại Cung Môn bên trong Hoàng Thành đội hỏa pháo sẽ nổ 9 phát súng mừng và lễ Tế Giao chấm dứt.

Trong thời gian tế lễ diễn ra, dân chúng nô nức đổ về xem khắp các trục đường khi đoàn ngự đạo đi qua. Cuộc lễ Tế Giao lần cuối cùng vào thời Nguyễn diễn ra vào ngày 23 tháng 3 năm 1945 dưới triều vua Bảo Đại.

(lược trích từ các tài liệu trên Internet - Léopold Cadière miêu tả rất chi tiết về Đoàn rước, về việc Bố trí hiện trường, và về Nghi thức tế, nhưng ... phức tạp quá)

Một số hình ảnh phục dựng lễ Tế Nam Giao trong dịp Festival Huế 2006 (tháng 6/2006) - sưu tầm Internet.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/2e91659959bc44a3a3527e822f4c9739.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/onrcxutcung.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/onrc.jpg
Đoàn rước rời hoàng cung

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Dnnhcl.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Lcsaotrongmrc.jpg
Đội nhạc lễ và lá cờ sao.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Hnhldisnn.jpg
Dưới chân đàn tế, chuẩn bị lễ tế chính

tunbo
04-09-2009, 11:39 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Cccgihnhl.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/69218ee79ffa5fe07ff6d6c9f222e2f3.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/0a919cca6d3d54a7b3d1c315078d9989.jpg
Một số hình ảnh lễ tế

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/cngl.jpg
Đồ cúng tế

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Hnhl.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Dngl.jpg
"Hoàng đế" thực hiện nghi lễ

(ảnh phục dựng lễ tế Nam Giao, tại Festival Huế 2006 - sưu tầm Internet)

tunbo
04-09-2009, 11:43 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/Honghicung.jpg
Kết thúc lễ tế, "Hoàng đế" lên kiệu hồi cung

Có một số tấm ảnh tư liệu cũ chụp lễ tế Nam Giao năm 1935, nhưng ảnh đen trắng, mờ quá, khó xem.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/LtnNamGiaothixa.jpg
Lễ tế Nam Giao 1935 - tư liệu trên mạng.

tunbo
05-09-2009, 12:29 AM
Đến Huế mà không đi thăm các khu lăng tẩm triều Nguyễn thì cũng thật phí. Đi khắp các khu lăng cũng tốn khá thời gian, mặt khác, cũng không thể bỏ qua Đại Nội, nên cuối cùng là dung hòa : đi cả hai nơi, xem trước để lần sau đi kỹ hơn. Ghé qua đàn Nam Giao chỉ là vì nó nằm ngay trên đường đi đến khu lăng, mà trời thì còn sớm quá. Đàn Nam Giao hiện tại cũng không có gì nhiều để chụp chẹp, nên chỉ gần nửa tiếng là rời đàn, tiếp tục hướng về phía Tây Nam thành phố để tới khu vực các lăng tẩm.

Các lăng tẩm Huế có một chủ đề tư tưởng chung, nhưng lại mang các phong cách nghệ thuật riêng.

- Lăng Gia Long : hoành tráng
- Lăng Minh Mạng : thâm nghiêm
- Lăng Thiệu Trị : thanh thoát
- Lăng Tự Đức : mơ mộng
- Lăng Dục Đức : đơn giản
- Lăng Đồng Khánh ; xinh xắn
- Lăng Khải Định : tinh xảo

Lẽ ra nên đi lăng Gia Long trước, nhưng lăng đó xa nhất, lại rộng lớn nhất, đi cả ngày mới xong, nên đành hẹn lần sau. Lần này thời gian có hạn, đi lăng Minh Mạng trước.

Minh Mạng là vị vua thứ hai của triều Nguyễn, được sử sách đánh giá là một vị vua thuộc hàng xuất sắc nhất triều Nguyễn. Trong thời kỳ tại vị, ông ta đã làm được rất nhiều việc, từ các công việc cải cách bộ máy triều đình, tổ chức thi cử, chinh phạt ngoại bang,... bên cạnh đó, ông ta cũng đã cho xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, nghệ thuật cao.

Năm Minh Mạng thứ 7 (1826) nhà vua bắt đầu sai các quan giỏi địa lý phong thủy tiến hành đi coi đất chuẩn bị xây lăng cho mình. Nhưng mãi 14 năm sau (1840) vua mới chọn được địa điểm cùng đồ án kiến trúc ưng ý - là vị trí lăg hiện nay.
Năm 1840, khi lên xem lại chỗ đất, vua đổi tên vùng núi Cẩm Kê ở đó thành Hiếu Sơn. Tháng 9/1840 triều đình huy động quân lính, thợ thuyền lên khu đất để điều chỉnh mặt bằng và xây vòng La thành bao quanh khu vực kiến trúc.
Qua đầu năm sau, nhà vua băng hà (20/1/1841), vua Thiệu Trị lên nối ngôi. Một tháng sau, 20/2/1841 vua Thiệu Trị tiếp tục cho tiến hành xây dựng lăng. Triều đình điều lên công trường gần 10.000 lính và thợ, lại cử Đại Học sĩ Trương Đăng Quế thường xuyên lên kiểm tra, trông coi công việc.
Ngày 20/8/1841, quan tài vua Minh Mạng được đưa vào chô ở Bửu thành bằng đường toại đạo. Tấm bia Thánh đức thần công trong Bi đình được dựng ngày 25/1/1842, nhưng phải sang đến năm 1843, công việc xây lăng mới hoàn tất.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/sodolangminhmang.jpg
Sơ đồ lăng Minh Mạng - ảnh sưu tầm Internet

Toàn bộ khu lăng trông giống như một người đang nằm ngủ, đầu gối lên một ngọn đồi cao, tứ chi xuôi duỗi ra thoải mái.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/tombeau_de_Minh_Mang.jpg
Không ảnh lăng Minh mạng - ảnh sưu tầm Internet

tunbo
05-09-2009, 12:48 AM
Các lăng tẩm ở Huế, một số có các vòng La thành được xây dựng (như lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức,..) một số lại tận dụng địa thế tự nhiên làm La thành, chứ không xây dựng La thành cụ thể (lăng Gia Long, lăng Thiệu Trị).
Vua Minh Mạng là người nghiêm khắc, khoa học. Bố cục lăng có thể cho thấy cá tính của nhà vua. Bên trong La thành, các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua một đường trục chính xuyên tâm lăng (sơ đồ). Tất cả đều được sắp xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống - giống như xã hội đương thời, được nhà vua tổ chức theo chính sách trung ương tập quyền.
Ở phần trước lăng, các kiến trúc khá thưa, càng vào sâu, mật độ các công trình kiến trúc càng dày đặc. Bửu thành là nơi có mộ nhà vua, được xây theo hình tròn, biểu thị vua là mặt trời.
mặc dù mang tính uy nghiêm đường bệ, lăng Minh Mạng vẫn có những nét đẹp quyến rũ của thiên nhiên đã được những người thợ tài hoa ngày xưa chỉnh trang lại để làm bối cảnh cho các công trình kiến trúc.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6062.jpg
Con đường đất vào lăng hiện tại. Lúc này mới khoảng 7g sáng mà đã nắng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5966.jpg
Bức Bình phong của lăng Minh Mạng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5964.jpg
Phía sau Bình phong là Đại Hồng Môn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5963.jpg
Đại Hồng Môn nhìn từ bên ngoài La Thành, sau bức Bình phong, hai con nghê đá hai bên. Đại Hồng Môn là cổng giữa, hai bên là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Đại Hồng Môn chỉ được mở một lần để đưa thi hài vua vào lăng, và được đóng chặt lại đến bây giờ (về nguyên tắc là thế, nhưng hình như tôi đã từng nhìn thấy một bức ảnh chụp cánh cổng gỗ của Đại Hồng Môn đang mở, mà chưa tìm lại được)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5969.jpg
Để vào thăm lăng, hiện tại phải đi qua cửa bên phải, thẳng con đường đất rợp bóng cây, sau đó qua cây cầu nhỏ này để đến trước Sân chầu (Bái Đình)

tunbo
05-09-2009, 11:09 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5975.jpg
Qua bên trong vòng La thành, để vào lăng, phải đi qua cây cầu nhỏ qua hồ Trừng Minh (nghĩa là Lắng trong, không tì vết)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4794.jpg
Phía bên trong các Hồng Môn có 3 dãy bậc thang, ứng với 3 cửa, được phân chia bởi 2 cặp rồng đá như lan can.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4796.jpg
Cánh cổng gỗ của Đại Hồng Môn, mà theo truyền thuyết, chỉ mở một lần duy nhất khi đưa thi hài vua vào lăng.

Qua Đại Hồng Môn là Sân chầu (Bái Đình), nói chung ở các lăng tuy có khác nhau đôi chút về số lượng hoặc kích thước các công trình, nhưng đều gồm các phần chính : Cổng chính - Sân chầu - Bi Đình - Khu vực Tẩm điện (nơi thờ thần vị của vua và hoàng hậu, cùng các công trình kiến trúc khác làm nơi ở của những bà phi làm công việc hương khói sau khi vua mất) - Bửu thành (mộ vua).
Sân chầu là một khoảng sân rộng lớn, được lát bằng gạch Bát Tràng. Hai bên là hai dãy tượng quan văn võ, tượng, mã và con Nghê. Thường là mỗi dãy tượng gồm 5 vị quan văn võ đứng chầu, cùng 1 mã, 1 tượng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4797.jpg
Dãy tượng nhân mã bên trái Sân chầu (chụp 30/4/2009, trời mưa)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5972.jpg
Dãy tượng nhân mã bên phải Sân chầu (chụp 14/6/2009, trời nắng)

tunbo
05-09-2009, 11:23 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5973.jpg
Bi Đình (Nhà bia)

Bi Đình lăng Minh Mạng là một tòa lầu được xây trên một cái gò nhỏ - được gọi là đồi Phụng Thần Sơn, bên trong có tấm bia Ngự chế bằng đá lớn, được trang trí tỉ mỉ. Bia này được gọi là bia Thánh Đức Thần Công (Đức ngang bậc Thánh, Công sánh bậc Thần), thường là của vua đời sau ca tụng công đức của vị vua nằm trong lăng. (Tuy nhiên trong số các lăng tẩm ở Huế, tấm bia ở lăng Tự Đức do chính nhà vua chấp bút soạn, còn lăng Dục Đức không có bia)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4817.jpg
Chữ khắc trên bia và các hoa văn trang trí

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4820.jpg
Chân đế bia chạm đầu rồng ở giữa.
Tấm bia trong lăng Minh Mạng do vua Thiệu Trị chấp bút soạn lời, và được dựng lên ngày 25/1/1842.

tunbo
05-09-2009, 11:47 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4813.jpg
Lối dẫn lên Bi Đình là các bậc thang được lát đá, lan can phía dưới là 2 con rồng đá lớn được tạc ẩn hiện trong mây, nhưng trông rất uy nghiêm.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4806.jpg
Lan can của lớp bậc thang thứ hai, nơi bao lơn nhô ra, là hai con rồng đá nhỏ hơn

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4808.jpg
Lan can của lớp bậc thang trên cùng.

Lăng Ming Mạng được thiết kế theo một trục dọc, toàn thể lăng giống như một thân người với trục trung tâm gọi là trục Thần Đạo. Phần Bi Đình trở về phái trước, mật độ bố trí các công trình rất thưa, càng về phía sau càng dày đặc, tương ứng với cơ thể con người : phần mật độ kiến trúc thưa tương ứng với đôi chân, phần mật độ kiến trúc dày tương ứng với phần thân và đầu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5974.jpg
Từ Bi Đình nhìn về phía sau là khu vực Tẩm điện. Đầu tiên là sân triều lễ chia làm 4 bậc cấp từ thấp đến cao, qua sân triều lễ là đến Hiển Đức Môn. Hiển Đức Môn vào thời điểm hiện tại đang được trùng tu, nên xung quanh đang đầy giàn giáo và các loại vật liệu xây dựng.

tunbo
06-09-2009, 02:06 PM
Do Hiển Đức Môn đang đóng cửa trùng tu, phải đi ngược ra bên hồ Trừng Mình để tiếp tục vào phía sau của lăng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_4822.jpg
Tường đổ nát rêu phong, phía hông bên phải Bi Đình

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5977.jpg
Ven theo bờ hồ Trừng Minh, đến ngang với Hiển Đức Môn, có cửa nhỏ này để vào khu Tẩm điện. Đợt tour 30/4/2009, mình mới đi đến đây, đã gặp mọi người từ trong kéo ra để ... về :D

tunbo
06-09-2009, 02:30 PM
Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực Tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông). Điện Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5985.jpg
Điện Sùng Ân - trung tâm của khu vực Tẩm điện

Trong Điện Sùng Ân thờ bài vị của vua Minh Mạng và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu. Về nguyên tắc, BQL lăng không cho chụp ảnh bên trong điện, nhưng do một may mắn ngẫu nhiên, vì khi tôi đến đó còn rất sớm, vào đến điện Sùng Ân mới chỉ hơn 7g sáng một chút. Cả khu lăng khi ấy còn rất vắng, dù nắng đã vàng rực trên các khóm cây, khi tôi vào điện, chỉ có duy nhất tôi là khách, cùng một anh chàng bảo vệ ngồi ở cái bàn ngay sau cửa ra vào. Anh ta nói ngay : " Yêu cầu anh không được chụp ảnh trong điện thờ, có bảng cấm chụp ảnh kia kìa". Lúc ấy cậy vắng người, cứ mồm thì vâng dạ, tay thì ... bấm máy. Nhưng trời còn sớm, dù ngoài sân có nắng, nhưng trong điện còn khá tối, tôi đánh liều nấp sau một cây cột và nhá đèn flash để chụp. Anh chàng phát hiện ra, ròi bàn tiến lại ... ngó mặt mình một hồi, rồi đột nhiên hạ giọng : "Giờ đang vắng, anh muốn chụp thì chụp nhanh mấy kiểu, rồi thôi đi, tôi canh cho. Nhưng nếu có người đến, tôi bảo thôi là phải thôi ngay đấy". Hì, đúng là số hên (nhưng sau đó chừng 10 phút có một cặp khoai Tây trung niên đến, quay phim mà chả bị nhắc - chắc người ta không muốn cho chụp có flash nhá sáng trong khu vực tôn nghiêm).

Điện Sùng Ân là điện thờ chính của lăng Minh Mạng, kiến trúc tuy đơn giản, nhưng nội thất trang nghiêm và rất đẹp. Trên các xà ngang là các tấm bảng gỗ nhỏ được trang trí bằng nghệ thuật chạm trổ, sơn son thếp vàng với các chữ Hán và nhiều kiểu cành dây leo, hoa lá cách điệu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5991.jpg
Bức gỗ ghi tên Sùng Ân Điện

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5990.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5989.jpg
Ban thờ chính trong Điện Sùng Ân

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5988.jpg
Bài vị của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa - mẹ đẻ của vua Thiệu Trị (miếu hiệu của vua Minh Mạng là Thánh Tổ Nhân Hoàng đế)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5995.jpg
Phía hiên hậu của Sùng Ân Điện có bàn thờ này

tunbo
06-09-2009, 02:45 PM
Trong khu vực Tẩm điện, Điện Sùng Ân là trung tâm, phía trước có Tả, Hữu Phối Điện, sau Hiển Đức Môn. Trong đó một tòa đã xuống cấp nặng, mái ngói lưu li ngày xưa đã bị vỡ nát, thay bằng mái tole cũng đã hoen rỉ gần hết.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5980.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5979.jpg
Tả, Hữu Phối Điện - không rõ người ta tính theo hướng từ Hiển Đức Môn nhìn vào hay là từ Sùng Ân Điện nhìn ra, lại quên không đọc bảng hướng dẫn, nên không rõ cái nào là Tả, cái nào là Hữu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5982.jpg
Bên trong tòa điện còn mái ngói lưu li

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5984.jpg
Ngói lưu li cùng bộ đòn, xà mái bằng gỗ - hiện vật trưng bày.

tunbo
06-09-2009, 02:52 PM
Ngay phía sau lưng Sùng Ân Điện là hai tòa Tả, Hữu Tùng Viện ở phía Đông và Tây của Sùng Ân Điện, làm nơi sinh hoạt, ăn ở của các phi tần, thái giám cùng những người hầu lo việc hương khói ở đây sau khi vua băng hà. Hiện chỉ còn một tòa, tòa kia đã đổ nát chỉ còn nền.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5996.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5998.jpg
Tả, Hữu Tùng Viện ngay sau lưng Sùng Ân Điện, một tòa đã bị đổ.

Bức tường bao xung quanh, chính là lớp tường thành hình vuông bao bọc khu vực Tẩm điện, biểu trưng cho Mặt đất.

tunbo
11-09-2009, 12:36 PM
Tả, Hữu Tùng Viện là phần cuối của khu vực Tẩm điện, được bao bọc bởi lớp tường gạch hình vuông xây bao xung quanh. Để đi tiếp đến khu vực tiếp theo, phải qua Hồng Trạch Môn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_5999.jpg
Hồng Trạch Môn - kiến trúc cuối cùng của khu Tẩm điện

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6002.jpg
Hai cái vòng đồng trên cánh cửa gỗ của Hồng Trạch Môn

Qua khỏi Hồng Trạch Môn, liền thấy ngay Minh Lâu trước mặt. Minh Lâu - có nghĩa là Lầu sáng - được xây dựng trên một cái gò nhỏ, được gọi là đồi Tam Đài Sơn. Chắc ý tưởng ban đầu, đây là nơi để nhà vua suy tư công việc, nhưng do vua băng trước khi tòa lầu xây dựng xong, nên giờ đâu, có lẽ Minh Lâu là nơi đi về của linh hồn ngài.

Đứng từ Hồng Trạch Môn nhìn tới, có 3 cây cầu nhỏ bắc qua eo hồ Trừng Minh để đi tới Minh Lâu. Cầu ở giữa có trên là Trung Đạo (Trung Đạo Kiều), bên trái là cầu Tả Phù, bên phải là cầu Hữu Bật

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6003.jpg
Minh Lâu nhìn từ Hồng Trạch Môn, 3 cây cầu nhỏ bắc qua hồ Trừng Minh, nối Hồng Trạch Môn với Minh Lâu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6006.jpg
Trung Đạo Kiều dẫn thẳng tới Minh Lâu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6000.jpg
Sau cánh cửa Hồng Trạch Môn là một khung cảnh tuyệt đẹp

tunbo
11-09-2009, 05:49 PM
Đứng từ trên Hồng Trạch Môn nhìn về phái Minh Lâu, hồ Trừng Minh vốn nằm vắt đều hai bên trục Thần Đạo (trục dọc) của khu lăng, thông hai nửa với nhau tại nơi có 3 cây cầu nối từ khu Tẩm điện sang Minh Lâu. Đối xứng hai bên, dọc theo trục Thần Đạo còn có nhiều những công trình phụ nữa, nhưng thời gian và chiến tranh đã làm đổ nát mất khá nhiều.
Bên phải Minh Lâu (theo hướng nhìn từ Hồng Trạch Môn), còn lại một tòa kiến trúc nhỏ : Nghênh Lương Quán, đối xứng với Nghênh Lương Quán về phái bên kia Trung Đạo Kiều là Điếu Ngư Đình, chỉ còn lại phế tích nền móng. Đây là 2 công trình nhỏ bên bờ hồ Trừng Minh, được tính dùng làm nơi nhà vua ngắm cảnh, câu cá và nghỉ ngơi. Nghênh Lương Quán là tòa nhà hình vuông, Điếu Ngư Đình ngày xưa hình tam giác.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6007.jpg
Nghênh Lương Quán bên hồ Trừng Minh - nhìn từ Hồng Trạch Môn

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6013.jpg
Hồ Trừng Minh, nhìn từ Nghênh Lương Quán

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6058.jpg
Cây cầu nhỏ gần cổng vào hiện nay.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6056.jpg
Từ Nghênh Lương Quán nhìn lại Hồng Trạch Môn

tunbo
11-09-2009, 06:08 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6020.jpg
Minh Lâu trên đồi Tam Đài Sơn - nhìn từ Nghênh Lương Quán - nằm giữa xanh ngát cây cỏ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6010.jpg
Các bậc đá dẫn lên Minh Lâu, từ cầu Trung Đạo

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6030.jpg
Bên trong Minh Lâu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6022.jpg
Thang gỗ lên gác Minh Lâu

tunbo
13-09-2009, 10:52 PM
Các vị vua đầu triều Nguyễn nói chung đều giỏi thơ (vua Gia Long trong đời mắc chinh chiến nhiều, không rõ về khoản văn thơ thì thế nào, còn Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều là những vị vua giỏi về thơ).

Thời trị vì của vua Minh Mạng có thể nói là một thời kỳ cực thịnh của văn thơ Việt thế kỷ XIX với nhiều tên tuổi lừng danh như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Trứ, cùng những tài thơ con vua như Nguyễn Phước Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh, Tương An Quận Vương Miên Bửu và ba Công chúa Trọng Khanh, Trúc Khanh, Quý Khanh.
Hiếu Lăng có thể nói là một bảo tàng thơ của nhà vua. Thơ của ông được khắc lên khắp nơi ở 4 công trình chính của lăng : Bi Đình, Hiển Đức Môn, Sùng Ân Điện, Minh Lâu! Số thơ ở Hiếu Lăng lên đến trên 120 bài tứ tuyệt (ngũ ngôn và thất ngôn) được khắc từng câu thành 500 ô chữ tách biệt trên các chi tiết gỗ của các công trình trên. Tuy nhiên, sự sắp xếp các câu thơ chữ Hán của nhà vua trên các công trình ở Hiếu Lăng không phải là theo thứ tự thành các bài thơ hoàn chỉnh, mà có những quy tắc đặc biệt. Các nhà nghiên cứu Huế sau này mất rất nhiều công lao nghiên cứu các ô chữ ở Hiếu lăng, rồi lại phải đem nghiên cứu mối liên hệ với những bài thơ của nhà vua được khắc trong các công trình ở Đại Nội, mới có thể "dịch" và "giải mã" được một số bài thơ theo đúng nguyên tắc, luật lệ và cấu trúc vốn phải có của thơ. Tuy nhiên vẫn còn một số chưa thể dịch được, có thể do một số chữ bị mất do sự tàn phá của thời gian, của chiến tranh.
Thơ của nhà vua khắc trên các công trình ở Hiếu lăng, chủ yếu là thơ ca ngợi giang sơn gấm vóc, cảnh đẹp núi sông, đất nước thái bình, triều đình bền vững.


Một bài ở Bi Đình :

Cao lĩnh tình quang chiêm ái ái
Viễn phong thự sắc đỗ thương thương
Bạch vân xuất động tu du tán
Lục thọ bình phô ý đài trường

Trời quang núi dựng tầng tầng
Non xa một dải xanh dần dần xanh
Rời hang mây trắng tan nhanh
Đất bằng hiện rõ cây xanh rêu dài (Nguyễn Trọng Tạo dịch)


Bài thơ về hoa sen, khắc ở Sùng Ân Điện :

Sen đẹp như người đẹp
Chuối tơ màu lục non
Gió mát tình dào dạt
Ngắm hoa ý thơ tràn (Tấn Hoài dịch)


Một bài khác miêu tả thôn xóm giàu có sung túc, cũng khắc ở Sùng Ân Điện :

Thương dĩ doanh thu cốc
Dã tương mậu hạ hoà
Minh già vô thú thán
Kích dưỡng hữu nông ca

Dịch :

Vụ thu thóc đã đầy kho
Ngoài đồng mùa hạ lúa ngô bời bời
Không lo lính thú nên vui
Say sưa đập đất hát bài nhà nông


Trên Minh Lâu có bài thơ vịnh ngôi nhà của đạo sĩ ở ẩn :

Long lanh ngọc đính trên sa
Thảnh thơi một mái khuất xa thị thành
Thú vui cao sĩ ẩn mình
Nằm trong mây khói bồng bềnh cuối thu (Hoàng Phủ Ngọc Tường dịch)


Hoặc bài tả cảnh đêm thôn quê :

Thanh thanh thuỳ thuý mạc
Diệu diệu quải kim luân
Tứ dã nghiêm sương túc
Cửu tiên trạm lộ tân

Đêm xanh buông thả tấm màn
Lửng lơ treo bánh xe vàng trên cao
Ruộng đồng sương đọng từ lâu
Trời con gieo tiếp giọt châu trong ngần (Nguyễn Trọng Tạo dịch)

Một số ý kiến cho rằng, các bài thơ của vua Minh Mạng là do vua Thiệu Trị (con vua Minh Mạng) cho khắc vào để "khoe" tài vua cha, nhưng thực tế thì Minh Mạng đã mất đến 14 năm để quyết định chọn vị trí, duyệt đồ án thiết kế lăng, và bắt đầu công việc xây lăng được ít lâu mới băng, chứ không phải ông ta không có sự chuẩn bị, nên chắc chắn những bài thơ được khắc trong các công trình ở Hiếu Lăng, Minh Mạng có chủ ý từ trước.
Làm thơ nhiều như thế, nhưng Vua Minh Mạng không coi mình là nhà thơ: "Thơ ta làm ra là để làm vui khi rỗi việc đó thôi...". Ông còn nói: "Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cái ăn là Trời. Tuy có cảnh tình, mây lành, chim phụng kỳ tập, kỳ lân ra đời, chẳng bằng được mùa là điềm lành trên hết!".

Nói chung, đánh giá về vua Minh Mạng có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, nhưng đều có một điểm chung : đây là vị vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và hay làm, việc gì cũng xem xét rất tỉ mỉ và tự phê duyệt rồi mới cho làm.


Một đoạn đánh giá về vua Minh Mạng trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim in năm 1919 :

Trong đời vua Thánh tổ, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy đời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta lẻ loi một mình.
Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chỉ một mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước hay dở thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tĩnh cũng có nhiều điều dở : ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy nên nói rằng ngài là một ông anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều(*) nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài

(*) : Trần Trọng Kim in cuốn Việt Nam sử lược này vào năm 1919 - dưới triều vua Khải Định. Từ "bản triều" chỉ triều Nguyễn đương thời. Ông Trần dù sau này có làm Thủ tướng chính quyền Việt Nam thân Nhật một thời gian ngắn năm 1945, nhưng đó là việc chính trị của ông ấy, còn về cơ bản, ông ta là nhà nghiên cứ lịch sử, nhà giáo. Các ý kiến của ông ta trong cuốn sách tương đối khách quan, hiện đại (vào thời điểm ấy)

trang11
13-09-2009, 11:48 PM
Lăng Tự Đức ở gần nhà em, hôm 30/4 mọi người đồng ý đi lăng Tự Đức thì em mời về nhà em chơi luôn rồi.
================================================== ================================
Những ai muốn chúng kiến tận mắt lễ tết đàn Nam Giao thì Festival Huế 2010 (khoảng trung tuần tháng 6) sắp tới mọi người đến sẽ có cơ hội được chứng kiến

tunbo
15-09-2009, 09:35 AM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6032.jpg
Phía sau Minh Lâu có 2 vườn hoa nhỏ đối xứng qua trục Thần Đạo - Bửu Thành xa xa

Hai bên phía sau Minh Lâu là hai cây trụ biểu - báo hiệu sắp đến khu vực có mộ vua. Hai cây trụ biểu được đặt trên 2 gò nhỏ, được đặt tên là Bình Sơn và Thanh Sơn, mang ý nghĩa nhà vua đã "bình thành công đức" trước khi về cõi vĩnh hằng. Cả hai cây trụ biểu ở Hiếu Lăng đều đứng giữa um tùm cây xanh trên hai quả đồi nhỏ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6014.jpg
Trụ biểu bên trái Minh Lâu (hướng nhìn về Bửu Thành)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6027.jpg
Dưới chân trụ biểu, người ta xếp những tảng đá thành hình con rồng chầu, qua thời gian, đến nay vẫn dễ nhận ra hình con rồng đá xếp này.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6011.jpg
Cây trụ biểu bên phải Minh Lâu, đứng lẫn trong cây cỏ xanh um

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6016.jpg
Dưới chân đồi, có tấm bia đá này

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6019.jpg
Chắc là bia đá ghi tên ngọn đồi có trụ biểu (chỉ đọc được chữ dưới là chữ SƠN, chữ trên không biết là BÌNH hay THANH nữa)

tunbo
15-09-2009, 09:44 AM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6033.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6035.jpg
Từ sau Minh Lâu, nhìn dọc theo trục Thần Đạo, thấy Bửu Thành phía xa

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6037.jpg
Xuống hết bậc cấp, nhìn lại Minh Lâu trong nắng sớm

Qua khỏi Minh Lâu, trước khi tới Bửu Thành, có hồ Tân Nguyệt (trăng non), có cây cầu bắc qua để đến Bửu Thành, cầu có tên là Thông Minh Chính Trực.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6051.jpg
Bửu Thành - nhìn từ bờ hồ Tân Nguyệt, bên phía trái của Minh Lâu

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6053.jpg
Gạch xây lan can hồ Tân Nguyệt

tunbo
15-09-2009, 01:54 PM
Nơi đặt mộ vua (còn gọi là Huyền cung) nằm giữa một quả đồi có tên là Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.
Bửu Thành hình tròn, tượng trưng cho mặt trời, hồ Tân Nguyệt hình mảnh trăng non ôm lấy Bửu Thành - biểu tượng ý nghĩa Âm (hồ Tân Nguyệt) Dương (Bửu Thành) kết hợp.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6025.jpg
Cầu Thông Minh Chính Trực bắc qua hồ Tân Nguyệt, dẫn đến Bửu Thành

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6038.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6046.jpg
Cầu Thông Minh Chính Trực với hàng lan can sắt cũ kỹ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6039.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6040.jpg
Qua cầu là đứng trước Bửu Thành

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6047.jpg
Nửa hồ Tân Nguyệt bên phaûi (trên cầu Thông Minh Chính Trực nhìn theo hướng đi đến Bửu Thành)

tunbo
15-09-2009, 02:03 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6054.jpg
Trụ đắp nổi hình rồng trên đầu cầu Thông Minh Chính Trực

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6042.jpg
33 bậc cấp lát đá, dẫn lên nơi vua an nghỉ

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6043.jpg
Cánh cổng dẫn vào nơi mộ vua luôn khóa. Ngày trước, mỗi năm nó chỉ được mở một lần vào ngày giỗ vua, để người ta vào làm cỏ. Vì thế, bên trong Bửu Thành, cây cối, cỏ dại mọc rất um tùm. Ngày xưa, người ta làm một đường hầm dẫn vào Huyền cung, để làm lối đưa quan tài nhà vua vào chôn, đường hầm ấy gọi là Toại đạo. Sau đó người ta cho lấp kín Toại đạo vĩnh viễn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6044.jpg
Huyền Cung Môn (dịch đại, biết mỗi chữ MÔN đứng đầu tiên:D)

tunbo
15-09-2009, 02:12 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6045.jpg
Trên Bửu Thành nhìn lại về phía Minh Lâu

tunbo
17-09-2009, 09:53 AM
Hai bên trục chính (trục Thần Đạo) của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một. Hiện nay, các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy đều không còn tồn tại.

Rời khỏi Bửu Thành quay ra, đã hơn 8g30, thế là đã đi loanh quanh trong lăng gần 2 tiếng. Trên đường quay ra, qua cây cầu nhỏ đầu tiên để ra cổng, thấy có tấm biển đề di tích Truy Tư Trai, lại tiện chân leo lên quả đồi nhỏ Phúc Ấm Sơn.

Truy Tư Trai thưở xưa là một công trình 3 gian hai chái kép, kích thước 18.8m x 11.3m, xung quanh có tường bao bọc, có cổng vào, vườn hoa, lối đi dạo. Truy Tư Trai là nơi nhà vua đọc sách, suy tưởng về tổ tiên.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6060.jpg
Truy Tư Trai xưa nằm trên đỉnh ngọn đồi này (ngay từ cổng soát vé, tay phải theo lối đi vào) - nay chỉ còn lối mòn lên đồi và tấm biển ghi tên di tích.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6061.jpg
Trên đỉnh đồi, cây cỏ mọc um tùm, chỉ còn lại vài hàng gạch cổ xưa, dấu vết cuối cùng của Truy Tư Trai cũ.

Mới hơn 8g30, trời nắng nhức cả mắt. Tạm biệt Hiếu Lăng, trực chỉ Lăng Thiệu Trị - Xương Lăng.

tunbo
17-09-2009, 01:03 PM
Rời khỏi lăng Minh Mạng, trở ra qua cây cầu Tuần (chắc thế, không nhớ chính xác), đi thẳng là đến lăng Khải Định, rẽ tay phải là đường đi đến lăng Gia Long, rẽ tay trái, đi dọc theo dòng sông Hương là đường quay lại thành phố Huế với các lăng rải rác gần trục đường ấy : Lăng Thiệu Trị, lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức.
Triều Nguyễn thực ra cũng chỉ được phồn thịnh, thực sự nắm chủ quyền trong giai đoạn đầu, dưới các triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, và đầu triều Tự Đức, các lăng tẩm của 4 vị vua này còn mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc cung đình xưa, chứ chưa bị lai căng với các nét kiến trúc phương Tây như một số lăng của các vị vua triều Nguyễn về sau này. Vì thế, tôi muốn đi thăm lăng của 4 vị vua đầu triều Nguyễn trước. Nhưng lăng Gia Long thì xa xôi, lại rất rộng lớn bao la, đi chắc mất cả ngày, không đủ thời gian. Lăng Tự Đức thì đã nghe tiếng là đẹp và thơ mộng, vì ít ra xây lăng xong đến 15 năm sau vua Tự Đức mới băng - ông ta từng đến sống ở Khiêm Cung (sau khi vua mất mới gọi là Kiêm Lăng) khá nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước đến nay ít nghe thấy nói về lăng vua Thiệu Trị - vị vua thứ 3 của triều Nguyễn - người có thời gian trị vì trên ngôi báu khá ngắn (7 năm), và cũng không có nhiều việc làm nổi bật trong thời gian ngự trên ngai vàng. Điều đó khiến tôi quyết định đến lăng Thiệu Trị - Xương Lăng.

Vua Thiệu Trị (1841 - 1847) là con trưởng của vua Minh Mạng, húy là Nguyễn Phúc Miên Tông (bắt đầu từ thế hệ vua Thiệu Trị, việc đặt tên trong hoàng tộc bắt đầu phải tuân theo thứ tự trong bài Đế hệ thi và các bài Phiên hệ thi do vua Minh Mạng đặt ra). Vua Thiệu Trị do bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu - tên thật là Hồ Thị Hoa - sinh ra. Vua được 3 ngày tuổi thì bà Hoa mất, khi mới 16 tuổi.

Sự nghiệp làm vua của Thiệu Trị ngắn, ông mất vì bệnh năm 1847 khi mới 41 tuổi và ở ngôi được gần 7 năm (từ 2/1841 đến 11/1847), trong thời gian đó, sử sách không ghi lại nhiều những sự kiện, công việc nổi bật nào, nhưng đều ghi nhận rằng vua Thiệu Trị là người có tính nhân hậu, khoan hòa, chăm chỉ và cũng là một vị vua hay chữ, hay thơ. Tính ông không được sôi nổi xốc vác như vua cha là Minh Mạng, tất cả cá đường lối, thể chế do vua Minh Mạng đặt ra, vua Thiệu Trị cứ cho tiếp tục, mà hầu như không có cải cách gì (có một số ý kiến cho rằng nhà vua không nhiều ý tưởng cải cách, nhưng thực ra, với rất nhiều những cải cách do vua cha Minh Mạng đề ra, việc thực thi cũng đã tốn nhiều tâm sức rồi).

Trước khi mất, vua Gia Long có dặn lại Thái tử Đảm - vua Minh Mạng sau này - rằng không được tiến hành việc binh bên ngoài lãnh thổ đất nước, nhưng vua Minh mạng vốn là người rất xốc vác, năng nổ, trong thời kỳ làm vua, đã lờ đi lời di huấn của vua Gia Long, mang quân sang đánh Chân Lạp (Miên) - tất nhiên sau khi nước này cho quân sang đánh phá vùng biên giới nước ta - và chiếm nguyên nước này, đổi thành một trấn của Việt Nam. Đến khi lên ngôi, vua Thiệu Trị sau đó đã ra lệnh rút quân về nước, trả lại nước cho người Khomer.

Thời gian tại vị ngắn, vua Thiệu Trị tuy đã nghiên cứu kiến trúc lăng Gia Long và lăng Minh Mạng, cũng như vạch ra ý tưởng cho khu lăng của mình, nhưng nhà vua chưa nghĩ đến việc tìm cuộc đất để xây dựng lăng tẩm cho mình, thì đột nhiên lâm bệnh và băng hà. Sử chép lại rằng, trước khi mất, vua dặn với Hông Nhậm (vua Tự Đức sau này) : "Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cất cho kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân" - thật là lời nói của một vị vua biết thương dân.

tunbo
17-09-2009, 08:48 PM
Vua Thiệu Trị băng hà ngày 4/11/1847, ngay sau đó, vua Tự Đức lên nối ngôi và sai người đi tìm xem thế đất để xây lăng cho vua cha, và họ đã tìm được một cuộc đất tốt tại chân một dãy núi thấp tại làng Cư Chán, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành chừng 8km (gần hơn so với 2 lăng có trước đó là lăng Gia Long và lăng Minh Mạng). Sau, núi ấy được gọi là núi Thuận Đạo, lăng ấy được gọi là Xương Lăng.

Ngày 11/2/1848 công cuộc xây dựng lăng bắt đầu được tiến hành. Về đại thể, các công trình mang tính thờ phụng ở lăng, thì bắt chước theo cách ở lăng Gia Long, Huyền cung, Toại đạo thì làm giống cách thức của lăng Minh Mạng. Vua Thiệu Trị trước lúc mất có dặn phải làm lăng đơn giản, "kiệm ước" để "đỡ lao phí đến tài lực của binh dân", nhưng rồi Tự Đức cũng vẫn cho xây dựng lăng khá bề thế. Toại đạo - con đường hầm đưa quan tài vua vào huyệt mộ - được xây vào ngày 24/3/1848. Ngày 14/6/1848, vua Tự Đức đích thân lên lăng kiểm tra công việc hoàn thiện lăng, và 10 ngày sau thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an tán tại lăng (Trước đó, trong vòng gần tròn 8 tháng, quan tài nhà vua được quàn tại điện Long An trong cung Bảo Định). Tấm bia Thánh đức thần công hơn 2500 chữ do vua Tự Đức viết, mãi ngày 19/11/1848 mới được dựng lên. Như vậy, tổng thời gian thi công lăng Thiệu Trị vẻn vẹn có hơn 9 tháng.

Ngoài ra, trong khu vực xung quanh lăng Thiệu Trị còn có một số lăng mộ khác của các thành viên trong gia đình nhà vua, mà thân cận nhất là mẹ đẻ và vợ chính của nhà vua. Nằm hơi chếch phía trước là lăng Hiếu Đông của mẹ vua (bà Hồ Thị Hoa), và ngay bên trái lăng là lăng Xương Thọ của vợ vua (bà Từ Dũ). Lăng bà Từ Dũ nhìn thẳng sang mộ vua, còn lăng vua nhìn thẳng sang nơi mộ của mẹ vua.

Lăng Thiệu Trị khác với lăng vua cha (Minh Mạng) ở chỗ không xây vòng La Thành bao bọc, mà giống lăng Gia Long phần nào. Tuy nhiên lăng Gia Long có nhiều đồi núi trùng điệp bao quanh, còn lăng Thiệu Trị chỉ tự lưng vào núi Thuận Đạo, còn phía trước và xung quanh lăng là đồng ruộng bao la.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/thieutri.jpg
Không ảnh lăng Thiệu Trị - ảnh sưu tầm Internet

Cũng vì mang hơi hướng cấu trúc của cả 2 lăng của hai vua tiền nhiệm, và "tiếp thu có chọn lọc", bố cục của lăng Thiệu Trị đã khác với cả hai lăng trên (Gia Long và Minh Mạng) ở chỗ đã chia tách ra làm 2 trục chính, song song và cách nhau khoảng 100m : Trục lăng và Tục tẩm.

Về mặt phong thủy, lăng Thiệu Trị ở thế "Sơn chỉ thủy giao", mặt quay về phía Tây Bắc, một hướng rất ít được dùng trong các công trình lớn ở Huế hồi đó. Đồi Vọng Cảnh và núi Ngọc Trản chầu phía trước lăng theo vị thế "thanh long - bach hổ" (tuy nhiên không hiểu sao, đồi Vọng Cảnh bên phải lăng được gọi là "long", núi Ngọc Trản bên trái được gọi là "hổ", trong khi về phong thủy, nguyên tắc là "tả thanh long, hữu bạch hổ"). Núi Chằm phía trước khá xa được coi là "tiền án" của lăng, dòng sông Hương trước mặt là yếu tố "minh đường", núi Kim Ngọc phía sau là "hậu chẩm". Thiên nhiên và kiến trúc ở lăng liên quan với nhau một cách mật thiết. Lăng Thiệu Trị trầm mặc và thanh thoát nằm giữa núi đồi rộng lớn, đồng ruộng bao la. Đó là thời xưa, khi lăng còn chưa bị thời gian tàn phá, năm 1939, một nhà nghiên cứu người Pháp từng phát biểu : " Lăng Thiệu Trị có thể được xem là một trong những thành tựu độc đáo nhất của nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XIX" - Đăng trong sách Những người bạn cố đô Huế (BAVH).

Đấy là ngày xưa, còn hiện nay lăng vua Thiệu trị tan hoang đổ nát gần hết rồi.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6064.jpg
Khu vực lăng vua, nhìn từ phía con đường nhựa đi ngang qua.

tunbo
17-09-2009, 09:07 PM
Bố cục khu lăng Thiệu trị gồm hai trục song song với nhau, là Trục lăng và Trục tẩm.

Ở Trục lăng, từ ngoài vào, là các công trình :
Hồ Nhuận Trạch - Bình phong - Nghi Môn - Sân chầu (Bái đình) - Bi đình - Lầu Đức Hinh - Trụ biểu - Cầu Đông Hòa, cầu Chánh Trung, cầu Tây Định - Bửu thành.

Ở Trục tẩm gồm các công trình :
Bình phong - Hồ Điện - Sân chầu - Hồng Trạch Môn - Tả, Hữu Phối viện - Điện Biểu Đức - Tả, Hữu Tùng viện.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6066.jpg
Từ hồ Nhuận Trạch nhìn vào khu lăng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6067.jpg
Bức Bình phong đơn giản ngay sau hồ Nhuận Trạch

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6068.jpg
Từ Nghi Môn nhìn vào Sân chầu và Bi đình

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6070.jpg
Nghi Môn là cổng vào bằng đồng đúc hình rồng vờn mây (Long vân đồng trụ)

tunbo
17-09-2009, 09:15 PM
Các công trình ở khu lăng vua, hầu như đã tan hoang hết cả, chi còn hàng tượng voi ngựa ở sân chầu, hai cột Trụ biểu là còn tương đối nguyên vẹn. Tòa Bi đình thì như là sắp sập bất cứ lúc nào, lầu Đức Hinh (có vai trò giống như Minh Lâu ở lăng Minh Mạng) thì đã sập đổ tan nát tự bao giờ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6071.jpg
Từ Sân chầu nhìn về Bi đình - hai cây Trụ biểu vươn lên trời cao.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6069.jpg
Hàng tượng Voi ngựa hai bên Sân chầu - giống các lăng khác, cũng gồm 1 voi, 1 ngựa và 5 tượng quan văn võ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6108.jpg
Từ Sân chầu, lên một hàng bậc cấp, có hai con Nghê đồng hai bên Bi đình.

tunbo
17-09-2009, 09:20 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6074.jpg
Bi đình nhìn từ phía trước, lan can rồng đá vẫn còn nguyên

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6086.jpg
Bi đình nhìn từ phía sau lai

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6079.jpg
Tòa đình còn hình dáng, nhưng bộ mái đã hư hỏng từ lâu, được lợp lại bằng tole, và tole cũng đã mục gần hết rồi

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6075.jpg
Bên ngoài tàn tạ thế, bên trong thì phải chống đỡ khắp nới thế này.

tunbo
19-09-2009, 08:11 PM
Đây mới là bắt đầu những hình ảnh hoang tàn của khu lăng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6076-1.jpg
Cây Trụ biểu bên trái Bi đình (hướng từ ngoài vào)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6078.jpg
Trụ biểu bên phải, nhìn từ phía sau Bi đình

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6077.jpg
Lầu Đức Hinh xưa, đã sập đổ từ lâu

Lăng Minh Mạng đưa tất cả các công trình chính vào 1 trục dọc, còn lăng Thiệu Trị lại tách làm 2 trục, nên ở mỗi trục, số công trình kiến trúc cũng không quá nhiều, nhưng quả thực, lăng Thiệu Trị cũng đã chỉ được làm vừa đủ các công trình cần thiết mà thôi.

tunbo
19-09-2009, 08:34 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6082.jpg
Dấu tích cái nền của Lầu Đức Hinh xưa, và hai vườn hoa nhỏ phía trước

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6084.jpg
Lối đi lát đá còn nguyên, nhưng tòa lầu nay chỉ còn cái nền

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6085.jpg
Hai vườn hoa nhỏ phía sau đối xứng qua lối đi

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6087.jpg
Mặt nền Lầu Đức Hinh, các tảng đá có lỗ chôn cột thì vẫn còn.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6088.jpg
Từ nền Lầu Đức Hinh nhìn về phía Bửu Thành.

Chính ở khu vực này - ở đoạn giữa Bi đình và Bửu Thành - sự hoang phế thật thê lương, hệt như những đống đổ nát ở Mỹ Sơn. Đỉnh điểm của cảnh hoang tàn ấy, với cá nhân tôi, là bức ảnh này :

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6083.jpg
Cây Trụ biểu rêu phong vẫn đứng sừng sững, xung quanh là những dấu tích đổ nát và hoang phế.

Một mình giữa cái nắng chang chang trưa tháng 6 Huế, trong một khung cảnh hoang tàn và sự im lặng đáng sợ - ở một nơi ngày xưa vốn là một trong những khu lăng được đánh giá là có giá trị mỹ thuật hàng đầu của thế kỷ XIX ở Huế - tự nhiên trong lòng thấy bùi ngùi khôn tả, bật ra mấy lời cảm khái :

Đương thời, ông là bậc đế vương
Trị nước thời bình, giỏi văn chương
Tuy rằng vương nghiệp không nổi bật
Nhưng vẫn giữ vững đạo cương thường
Nay lăng đổ nát trong hoang lạnh
Ngổn ngang phế tích, thật thê lương
Viếng lăng, trông cảnh, lòng cảm khái
Lặng gửi tiền nhân một nén hương.

tunbo
19-09-2009, 08:46 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6080.jpg
Một hình ảnh nữa về sự hoang phế của khu lăng Thiệu Trị (mình vốn ám ảnh hình ảnh hai cây Trụ biểu giữa đống đổ nát hoang tàn) - chụp từ bờ hồ Ngưng Thúy, trước khi vào khu vực Bửu Thành

tunbo
19-09-2009, 09:01 PM
Đi qua dấu tích cái nền Lầu Đức Hinh, với 2 cây Trụ biểu hai bên, là đã tới khu vực Bửu Thành đặt mộ nhà vua. Hồ Ngưng Thúy chạy dọc theo chiều dài khu lăng, và nằm vào khoảng giữa khu lăng và khu Tẩm điện thờ vua, đến trước Bửu Thành, hồ cũng lượn qua, ôm lấy Bửu Thành gần nửa vòng cung. Để tới Bửu Thành, có 3 cây cầu bắc qua hồ Ngưng Thúy : cầu Đông Hòa, cầu Chánh Trung, cầu Tây Định

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6091.jpg
Từ Lầu Đức Hinh nhìn về phía Bửu Thành. Ba cây cầu bắc qua hồ Ngưng Thúy, cây cầu bên trái ảnh là cầu Đông Hòa, bên phải ảnh là cầu Tây Định

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6092.jpg
Cây cầu ở giữa là cầu Chánh Trung, dẫn thẳng tới Bửu Thành

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6090.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6094.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6095.jpg
Một số góc nhìn về đường dẫn tới Bửu Thành, với hai hàng cổng "long vân đồng trụ" tàn tạ, hàng lan can cầu Chánh Trung long, gẫy mất quá nửa.

tunbo
19-09-2009, 09:31 PM
Bửu Thành và Toại đạo ở lăng Thiệu Trị được làm theo kiểu của lăng Minh Mạng, vì thế Bửu Thành ở đây khá giống với Bửu Thành ở lăng Minh Mạng, cũng là một vòng thành tròn, xây trên một quả đồi, trong đó đặt mộ nhà vua.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6097.jpg
Ngoài lớp tường thành hình tròn ở trên cao, dưới chân đồi còn một vòng bờ kè, ở lăng Thiệu Trị, dường như người ta xếp đá làm vòng bờ kè này chứ không xây gạch như lăng Minh Mạng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6099.jpg
Bên trong Bửu Thành, cây cối cũng um tùm

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6104.jpg
Bậc lên lát đá, cặp rồng đá làm lan can

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6103.jpg
Hai cánh cổng vào Bửu Thành luôn khóa.

Tôi từng đọc ở đâu đó rằng xưa hai cánh cửa ấy bằng gỗ, sau này vua Thành Thái cho thay bằng đồng (cũng không nhớ chính xác có phải với lăng Thiệu Trị không nữa, vì tìm mãi chưa thấy lại tài liệu).
Không như bên lăng Minh Mạng - có cái vẻ gì đó uy nghiêm, làm người ta ngài ngại - ở lăng Thiệu Trị quả có cảm giác bình dị đơn sơ hơn, nên tuy có mỗi mình, tôi vẫn (dám :D)thử ghé mắt nhìn qua lỗ thủng trên cửa Bửu Thành. Ở bên trong cây cối um tùm, cỏ dại cũng cao ngang lưng người. Người ta nói rằng, vị trí huyệt mộ vua không a biết được (tất nhiên trong khuôn viên Bửu Thành), ngày xưa, mỗi năm đến ngày giỗ nhà vua, người ta mới mở cửa Bửu Thành để vào phát cỏ dại, sau đó lại đóng cửa, dán niêm phong. Bên trong vòng tường hình tròn của Bửu Thành, người ta cứ đi phát cỏ men theo vòng tròn, và nếu không có bức tường làm hậu án (đối diện với cổng), cũng khó mà biết đã đi phát cỏ được bao nhiêu phần, vì sau một năm, cây cối, cỏ dại mọc lên che khuất cả mặt đất. Đấy là ngày xưa, còn bây giờ, có vẻ việc ấy không còn diễn ra nữa thì phải (không biết Nguyễn Phúc tộc sau này có khi nào vào Bửu Thành hay không nữa.)

funny_bro
20-09-2009, 08:34 PM
Cám ơn tunbo về những bài viết về lịch sử và địa lý rất hay thêm nữa tay nghề phó nhòm dạo này cũng chuẩn ra phết đấy.

tunbo
20-09-2009, 09:20 PM
Trước khi sang khu vực Tẩm điện nằm song song kế bên khu lăng, đứng từ phía Bửu Thành nhìn lại phía trước lăng, lại thấy nao nao với những đổ nát cùng hai cây Trụ biểu đứng sừng sững

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6101.jpg
Cây Trụ biểu phía cầu Đông Hòa.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6102.jpg
Cây Trụ biểu phía cầu Tây Định

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6107.jpg
Những cụm đá tảng xếp thành hình rồng chầu dưới chân Trụ biểu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6105.jpg
Từ dưới chân Bửu Thành nhìn ra phía Bi đình.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6100.jpg
Từ trên Huyền cung môn nhìn ra.

tunbo
20-09-2009, 09:33 PM
Trong khuôn viên toàn bộ Xương Lăng, có 3 cái hồ : Hồ Nhuận Trạch nằm trước lăng, Hồ Điện nằm trước khu Tẩm điện, Hồ Ngưng Thúy nằm dọc giữa hai khu Lăng và Tẩm, đoạn cuối bẻ cong ôm lấy Bửu Thành

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6109.jpg
Đoạn Hồ Ngưng Thúy nằm dọc giữa khu Lăng (bên trái) và khu Tẩm (bên phải), có nhiều sen mọc trong đoạn hồ này.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6106.jpg
Đoạn cuối Hồ Ngưng Thúy uốn cong, ôm lấy Bửu Thành. Đây là phần ở về phía tay phải Bửu Thành từ ngoài nhìn vào. Sen nhiều, cá cũng nhiều. Đến chỗ này, mới phát hiện không phải chỉ có duy nhất mình trong khu vực lăng, mà có một người nữa, đang câu cá bên Hồ Ngưng Thúy.

tunbo
20-09-2009, 09:50 PM
Rời khu lăng đổ nát hoang lạnh, trong lòng vẫn cứ cảm thấy nao nao ngậm ngùi. Lúc đó thực ra mới khoảng hơn 9g sáng, nhưng nắng như đổ lửa, toàn khu lăng rộng mênh mông với các phế tích đổ nát, với 2 cây Trụ biểu rêu phong, giữa xanh ngắt cây cỏ. Ôi, một đời làm vua ...

Nằm song song và gần như đối xứng với khu lăng qua đoạn hẹp của Hồ Ngưng Thúy, là khu vực tẩm điện, là nơi đặt ban thờ nhà vua, và cũng là nơi sinh hoạt của các phi tần của vua sau khi ông ta băng hà. Vua Thiệu Trị mất khi mới 41 tuổi, nên các bà vợ thiếp của ông ta khi đó khá nhiều, phải lên Xương Lăng sống để lo việc thờ cúng nhà vua (chỉ có bà Từ Dũ là mẹ đẻ của vua Tự Đức thì ở lại Hoàng cung).

Khu vực Tẩm điện, gồm các công trình (từ trước ra sau) :

Bức Bình Phong - Hồ Điện - Nghi môn - Sân chầu - Hồng Trạch Môn - Tả, Hữu phối điện - Điện Biểu Đức - Tả, Hữ tùng viện.
Các công trình này đều còn cả, nhưng xuống cấp trầm trọng và đang trong quá trình trùng tu (Nhà nước rót vốn 106 tỉ đồng).

Khác một chút với khu lăng, bức Bình Phong ở khu Tẩm được xây phía trước Hồ Điện.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6112.jpg
Bình Phong khu Tẩm điện được xây phía trước Hồ Điện, dưới chân một cái gò nhỏ trồng thông xanh mướt.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6115.jpg
Từ bên này Hồ Điện trông sang Bình Phong

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6110.jpg
Hồ Điện, nằm ngang hàng với Hồ Nhuận Trạch bên khu lăng.

tunbo
23-09-2009, 10:24 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6113.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6111.jpg
Sen trong Hồ Điện

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6114.jpg
Nghi Môn, phía xa xa trên cao là Hồng Trạch Môn

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6116.jpg
Từ Nghi Môn lên tới Hồng Trạch Môn là một sân chầu rộng lớn, chia làm 4 cao độ

tunbo
23-09-2009, 10:40 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6117.jpg
Sân chầu ở khu vực Tẩm điện rộng không kém sân chầu bên khu Lăng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6118.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6119.jpg
Ở bậc sân gần sát Hồng Trạch Môn - nắng quá, nhưng ở góc này có nhiều cây.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6124.jpg
Ở bậc sân cao nhất

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6125.jpg
Chiếc vạc trước cửa Hồng Trạch Môn, đã bị vỡ một mảng lớn bên hông, và gẫy mất một tai. Từ đầu thế kỷ XVIII, các vua Nguyễn cho bày nhiều Vạc hoặc Đỉnh đồng ngay trước cung điện, lăng tẩm như một biểu tượng thể hiện sự uy nghiêm và sức mạnh của triều đại (Ngày xưa, sau mỗi chiến thắng, người ta thường đúc Vạc hoặc Đỉnh từ những vật bằng đồng thu được của đối phương như là một cách thể hiện dụng ý tượng đài kỷ niệm chiến thắng). Đỉnh thường có hình tròn với 3 chân, 2 tai; hoặc hình chữ nhật với 4 chân 2 tai (các Đỉnh trong Hoàng thành thường là loại đỉnh tròn, càn ở các khu lăng thường là đỉnh chữ nhật như trong hình). Nhưng cái Đỉnh này (và cả bên lăng Minh Mạng cũng có một cái đặt trước Hiển Đức Môn kiểu chữ nhật 4 chân tương tự) có vẻ được đúc bằng gang chứ không phải bằng đồng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6120.jpg
Từ Hồng Trạch Môn nhìn xuống sân chầu, Nghi Môn và Hồ Điện, bức Bình Phong

tunbo
23-09-2009, 10:54 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6123.jpg
Hồng Trạch Môn - cổng vào khu vực Tẩm điện lăng Thiệu Trị.

Ngay lối cửa nhỏ bên phải hình - cửa duy nhất mở để ra vào hiện tại - đặt một cái bảng to tướng, ghi đại ý : Khu vực đang tiến hành thi công, sửa chữa. Cấm vào. Nhưng vì lúc đó trước sân nắng chang chang, chả có ai, nên mình coi như không có thấy cái bảng to bự đó, cứ cắm cúi xộc vào trong và ... giương máy chụp. Vào đến sân bên trong Hồng Trạch Môn, lập tức có một ông mặc đồng phục tiến ra.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6132.jpg
Hồng Trạch Môn phía bên trong nhìn ra. Người đang đứng trong ô cửa, là vị nhân viên đang "mời" kẻ chụp ảnh đi ra.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6127.jpg
Thang gỗ lên lầu trên của Hồng Trạch Môn

Đến nhát này xong, ông kia sốt ruột chạy lại ... dắt ra ngoài :D. Sau một hồi uốn lưỡi, có kết quả khả quan không ngờ, là vì biết khen cái này :

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6129.jpg
"Cái cây (hình như cây Vạn tuế) có vẻ quý quá, chú nhỉ?"

Thế là gãi đúng chỗ, ông ta bèn bảo : "Vào chụp lại đi, cây này được trồng từ khi lăng xây xong, năm 1848, tức là đến nay, nó ít nhất đã hơn 160 năm rồi đó".

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6128.jpg
Cây quý như hình con rồng bên canh Hồng Trạch Môn.

tunbo
23-09-2009, 11:04 PM
Nghe ông ta kể, mình cũng thấy cái cây quả là ... quý thật, bèn chậc lưỡi khen mấy câu (thật tình). Tự dưng ông ta bảo : "Thôi, giờ để tui dẫn chú đi tham quan toàn khu này, chụp thoải mái, nhưng có ai hỏi, cứ nhận là cháu tôi mới ngoài Hà Nội vào nhé". (ặc, thấy mình nói tiếng Bắc, ông ấy phán ... như thật :D). Thế rồi ông ấy dẫn tôi đi khắp khu Tẩm điện, và làm hướng dẫn viên luôn. Cám ơn ông chú tốt bụng, bõ công mình đội nắng lội bộ vào đây.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6130.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6131.jpg
Tả, Hữu phối điện ngay sau Hồng Trạch Môn, phía trước Điện Biểu Đức. Mái ngói 2 tòa điện này, có vẻ vẫn là ngói cũ ngày xưa.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6133.jpg
Điện Biểu Đức - điện thờ chính của vua Thiệu Trị. Đang trong quá trình trùng tu. Bên trong, ban thờ đã được tạm dọn đi để lấy chỗ thi công, ông chú không cho vào trong ấy.

tunbo
24-09-2009, 10:47 AM
Tả, Hữu tùng viện là nơi ăn ở, sinh hoạt của các bà phi, thái giám,... của nhà vua lên ở Xương Lăng lo việc thờ tự vua. Hai tòa viện này, ngày nay đã xuống cấp trầm trọng, đang được chống đỡ để trùng tu.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6134.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6138.jpg
Hai tòa viện cũ đã xuống cấp

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6135.jpg
Các cây cột giờ phải chống đỡ bằng gỗ thế này.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6136.jpg
Các bức vách ngăn phòng ở của các bà phi - bằng dăm gỗ ép với đất sét, từ 1848 đến nay (theo lời của "guider")

tunbo
24-09-2009, 11:07 AM
Đến đó là hết khu vực Tẩm điện của Xương Lăng, cũng không có nhiều công trình, và đang trong quá trình trùng tu, nên cũng không có gì nhiều để chụp.
Phía sau Tẩm điện của Xương Lăng, chếch về phía tay phải (từ ngoài vào), qua một vạt rừng thông thưa khoảng hơn 100m là đến khuôn viên Xương Thọ Lăng - lăng mộ của bà Thái hậu Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị, mẹ đẻ vua Tự Đức.

Bà Từ Dũ là một người phụ nữ được sử sách cũng như dân chúng đánh giá rất cao về tư cách và nhân phẩm. Bà nổi tiếng với vai trò làm mẹ của vua Tự Đức hơn là thời kỳ làm vợ vua Thiệu Trị, với kiến thức rộng lớn, bản tính cần kiệm, bà đã có ảnh hưởng nhiều đến vua Tự Đức. Bà mất năm 1902, thọ 92 tuổi, và tháng 5/1902 được an táng ở Xương Thọ Lăng trong khuôn viên Xương Lăng của vua Thiệu Trị.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6139.jpg
Toàn cảnh khu lăng mộ bà Từ Dũ nhìn từ phía Tẩm điện Xương Lăng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6142.jpg
Nhìn từ trước Xương Thọ Lăng : có một hồ nhỏ hình bán nguyệt làm Minh đường, hai cây Trụ biểu phía trước. Thẳng trước mặt, sau rặng thông là Bửu Thành Xương Lăng, chếch bên tay trái ảnh là khu Tẩm điện Xương Lăng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6141.jpg
Xương Thọ Lăng, nhìn từ bờ hồ bán nguyệt trước lăng. Khu Xương Thọ Lăng mới hơn trăm năm, trông cũng hoang phế như toàn cảnh Xương Lăng.

tunbo
24-09-2009, 11:13 AM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6143.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6151.jpg
Các bậc lối đi gạch vỡ nát và các hàng lan can rêu phong, cổng vào lăng mộ đơn giản.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6150.jpg
Từ cổng vào mộ nhìn ra phía trước lăng.

tunbo
24-09-2009, 11:16 AM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6145.jpg
Bình phong lăng mộ ngay sau cổng vào khu mộ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6148.jpg
Những nét trang trí trên Bình phong - từ 1902 đến nay.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6146.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6149.jpg
Ngôi mộ đá đơn giản. Mộ được bao quanh bởi một vòng tường gạch thấp, có bức tương phía sau làm Hậu án xây cũng đơn giản, nhưng trang trí khá đẹp.

tunbo
25-09-2009, 09:41 PM
Rời khỏi lăng bà Từ Dũ, ngồi nghỉ trong bóng mát của cây cối bên bờ Hồ Điện, quả thấy việc đến Lăng Thiệu Trị là quyết định sáng suốt. Ông xe ôm cũng bảo : "Rất ít người Việt thuê tui chở đến lăng Thiệu Trị, trong khi đến đây rất mát mẻ, yên tĩnh và cũng đẹp chả thua chỗ nào".
Tiếp tục tìm đường vào lăng Hiếu Đông - lăng mẹ vua Thiệu Trị - ở gần đấy, sau khi đã nhờ ông chú tốt bụng vẽ cho cặn kẽ. Lăng Hiếu Đông gần như đối xứng với Lăng Thiệu Trị qua con đường nhựa chạy ngang qua trước lăng. Từ con đường đất từ lăng Thiệu Trị đi ra, vượt qua đường nhựa, thẳng vào làng bằng con đường đất nhỏ, hai bên rợp bóng cây. Chỉ dẫn thì như thế, đi vào đường ấy chừng gần 1km là đến. Vừa đi vừa hỏi thăm dân, ai cũng bảo : đúng rồi, sắp tới rồi. (Vụ này phải hỏi đường, vì ông xe ôm cũng chưa từng vào lăng Hiếu Đông, dù biết lăng đó nằm gần Xương Lăng).

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6152.jpg
Đi vào đường làng chừng 500m thì thấy hai cây Trụ biểu của lăng Hiếu Đông, càng chắc mẩm là sắp đến rồi.

Nhưng càng đi tiếp, càng thấy như mình đi sai đường, đã vượt qua 2 cây Trụ biểu, xuyên qua hết khu làng, đến đồng không mông quạnh, không còn lối đi, mà không thấy lăng, không thấy lối nào vào chỗ 2 cây trụ biểu. hay sai đường, đi ra phía sau lăng mất rồi? Lại đi ngược ra dò lối lại gần 2 cây Trụ biểu. Cuối cùng phát hiện ra "con đường" độc đạo để đến chỗ 2 cây Trụ biểu giữa ruộng mía.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6154.jpg
Vượt qua "cây cầu" này mới sang được chỗ 2 cây Trụ biểu.

Lúc này, xe ôm đã phải dừng lại từ xa rồi, đi bộ theo lối mòn mới lần ra đến chỗ này. Cây gỗ bắc qua một con mương - hay suối gì đó - hẹp, nhưng có nước chảy. Nắng chang chang - lúc đó đã hơn 10g chút xíu - băng qua khoảng đất trống mới cày cuốc, đến ruộng mía bạt ngàn. Chả có ai. Tự vạch cây cỏ, vạch mía ra tìm đường. Nhưng cuối cùng cũng thấy có 2 cây Trụ biểu trơ trơ giữa ruộng mía, tuyệt không thấy gì khác.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6153.jpg
Xung quanh 2 cây Trụ biểu hoàn toàn hoang vắng, không có gì ngoài mía và cỏ cây

tunbo
25-09-2009, 10:05 PM
Lúc ấy, trong cánh đồng mía không có một ai khác để mà hỏi han, đành ... quay trở ra chỗ xe ôm đang chờ, rồi tính chuyện quay về Huế luôn. Nhưng cái thói thường, lúc tìm thì không ra, lúc từ bỏ ý định tìm, thì tự dưng lại thấy :D.
Đúng 2 cây Trụ biểu ấy là của lăng Hiếu Đông, nhưng lăng cách đó hơi xa, mà "xa" về phía đường nhựa, tức là khi mải ngó Trụ biểu, đã đi qua lăng lâu rồi, lúc quay lại tìm, thì chưa quay lại tới lăng, mà lại mò đường tới Trụ biểu.

Đây thực tế là một khu lăng nhỏ của mẹ vua Thiệu Trị - vợ vua Minh Mạng. Bà tên Hồ Thị Hoa - tức là bà Tả Thiên Nhân Hoàng hậu, có ban thờ đặt trong Sùng Ân Điện, bên canh ban thờ vua Minh Mạng. Sinh vua Thiệu Trị được 3 ngày thì bà mất, khi mới 16 tuổi. Lăng Hiếu Đông chỉ là khu lăng mộ của bà, sau khi bà được đưa vào thờ trong Sùng Ân Điện trong lăng Minh Mạng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6155.jpg
Khi bà mất, Hoàng tử Đảm còn chưa được truyền ngôi, nên có lẽ vì thế, khu lăng mộ của bà vì thế cũng đơn giản. Chỉ là một vòng tường thành bao bọc lấy ngôi mộ, một khoảng sân nhỏ được tôn cao lên, với các bậc đi lên cũng được làm lan can giả bằng 2 con rồng đá nhỏ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6156.jpg
Bậc cấp dẫn từ sân lên khu mộ, cặp rồng đá đã gãy vỡ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6158.jpg
Không biết ngày xưa, cánh cổng thế nào, còn bây giờ, nó thế này. Tường bao quanh mộ xây bằng gạch, còn cổng xây bằng đá (không biết tên cái cổng này, vì biết mỗi chữ MÔN :) )

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6157.jpg
Cổng bị khóa, đành thò máy chụp được gì thì chụp. Bức bìng phong trước mộ được làm bằng đá, rất đơn giản như thế này. Không chụp được ảnh ngôi mộ.

Quanh khu vực, còn có một số lăng mộ nhỏ của các thành viên trong gia đình vua Thiệu Trị, nhưng xem giờ đã 10g15, nên phải quay lại Huế. Kết thúc cụm quần thể lăng Thiệu Trị.

jimmy nguyen
26-09-2009, 08:36 AM
Bác Tunbo chịu khám phá quá! Nếu có em đi cùng sẽ vui lắm! (Em rất thích khám phá những gì thuộc về lịch sử Việt) Có cái này vui vui, em đọc hết topic này của bác ngộ ra 1 điều là vốn liếng Hán văn của em với bác chắc kẻ ngang người ngửa!!! :)) Cám ơn bác đã chộp ảnh và viết bài này!

tunbo
30-09-2009, 09:15 AM
Đúng theo trình tự thời gian, thì khi rời lăng Hiếu Đông lúc khoảng gần 10g30, quay về đến Đại Nội lúc 11g, mình "thả" bác xe ôm về nhà ăn cơm với vợ con, còn mình bắt đầu vác máy vào Đại Nội, kèm lời hẹn với xe ôm : 15g30 đón tôi ở Ngọ Môn.
Nhưng thực tế thì lúc hơn 16g30 lết được ra đến Ngọ Môn, thấy bác xe ôm đang ngủ gật, vì y nghĩ hẹn 15g30, thì cùng lắm 15g là mình quay ra, nên y ra sớm cho chắc:)).
Gọi y dậy, y bẩu : "Ông đi bộ trong đó mà đi lắm thế? Hay lại chạy ra ăn trưa rồi quay vào?".
Thực ra, trong đó làm gì có chỗ ăn, mà ra ngoài thì lại phải mua vé vào lại, trong khi vòng ra vòng vào cũng ... rạc cẳng. Khi y biết mình chưa măm miếc gì, bèn gạ chở đi ăn món Huế, nhưng chỉ còn một giờ rưỡi nữa là phải lên xe đi Hà Nội, nên quyết định đi tiếp An Lăng luôn - đằng nào lên xe ra Đông Hà chả dừng lại ăn...tối.
Gần 5 giờ lang thang trong Đại Nội, sục vào gần như tất cả những chỗ có thể, chụp và chụp. Nhưng Đại Nội cũng không phải là một khu vực quá bé, nên cuối cùng, có những chỗ đi qua rồi, sau thấy đẹp lại quay lại chụp, nên lúc soạn lại, ngồi trước đống hình ảnh, cứ loạn cả lên, tẩu hỏa nhập ma cả tuần nay. Đành tách ra một topic riêng (vì Đại Nội chỉ là một phần của Kinh Thành, để sau có đi nữa, có thể nối tiếp các phần của Kinh Thành vào cho tiện). Vì thế, để giảm Xì trét với đống hình ảnh Đại Nội, tôi gắn phần Lăng Dục Đức tiếp nối vào đây.

tunbo
30-09-2009, 09:50 AM
Triều Nguyễn chỉ thực sự phồn thịnh nhất, có lẽ trong giai đoạn vua Minh Mạng tại vị, đến thời kỳ Tự Đức, chủ quyền quốc gia đã mất dần vào tay người Pháp.
Khi Tự Đức mất (19/7/1883), người Pháp đã xâm chiếm Nam Kỳ, và đã áp đặt được quyền kiểm soát triều đình nhà Nguyễn.
Tự Đức mất, mà không có con. Lịch sử triều Nguyễn lâm vào một gia đoạn phức tạp và rối rắm, cái ngai vàng trở nên đẫm máu, do những âm mưu sắp đặt của người Pháp, của các đại thần nắm nhiều thế lực. Đó là giai đoạn "tứ nguyệt tam vương", gồm các vua : Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc. Mà trong số đó, Dục Đức và Hiệp Hòa bị bức tử, còn Kiến Phúc chết không minh bạch, người ta có cơ sở để nghi vua Kiến Phúc cũng bị đầu độc.
Vua Dục Đức là cháu ruột Tự Đức. Do không có con, Tự Đức đã nuôi Ưng Chân (tên thật vua Dục Đức) làm con nuôi. Khi Tự Đức mất, Dục Đức đã 32 tuổi, được nối ngôi theo di chiếu. Tuy nhiên Tự Đức cũng nói về một số tật xấu của Dục Đức trong di chiếu, và vin vào cớ khi đọc di chiếu, đến đoạn nói về các tật xấu này được đọc nhỏ thoáng qua, nên chỉ sau 3 ngày ngồi trên ngai vàng (thậm chí chưa kịp đặt niên hiệu mới), Dục Đức bị Tôn Thất Thuyết và Nguễn Văn Tường phế truất và tống ngục (ngày 23/7/1883). Sau hơn 2 tháng bị giam, Dục Đức chết trong ngục ngày 6/10/1833 - sau 7 ngày không được cho ăn uống. Vì lúc nhỏ, vua được nuôi ở Dục Đức đường, nên sau này người ta gọi ông là Dục Đức.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6505.jpg
Trụ biểu lăng Dục Đức trơ trọi giữa bãi cỏ.

tunbo
30-09-2009, 10:08 AM
Dục Đức chết trong ngục, triều đình không cho thân nhân trong gia đình của ông được biết để lo tang lễ. Xác vị phế đê được cho bó vào một tấm chiếu, giao cho 2 người gánh lên chùa Tường Quang chôn, có một ông Quyền suất đội đi theo giám sát.
Chùa Tường Quang nằm ở khu vực An Cựu phía bờ Nam sông Hương, do một người bà con bên vợ vua Dục Đức lập ra vào năm 1871, đang do một bà cung nhân họ Lê trông coi.
Khi thi hài Dục Đức được gánh gần đến chùa, qua khu vực cồn Phước Quả, cố quan tài chiếu bị đứt dây, rơi xuống một vũng nước. Người ta bèn bỏ đó, chạy lại chùa gọi bà họ Lê ra xử lý. Lúc đó là đêm đầu đông, mưa gió lạnh lẽo, nên mọi người bàn nhau rằng, có lẽ đó là nơi "thiên táng", nơi vị phế đế muốn yên giấc ngàn thu, nên mới làm đứt dây gánh. Vì thế họ lấp đất lại luôn, chôn vua tại chỗ một cách qua loa. Mấy hôm sau, vợ chính của vua (bà Từ Minh, mẹ vua Thành Thái sau này) mới được triều đình cho lên thăm mộ vua và làm lễ chịu tang ở chùa Tường Quang.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6506.jpg
Cổng vào khu lăng mộ vua hiện nay.

tunbo
30-09-2009, 10:42 AM
Với thân phận hẩm hiu của một vị phế đế bất hạnh, có lẽ ngôi mộ của vua Dục Đức cũng sẽ chỉ là một nấm đất lạnh lẽo như thế. Nhưng thời cuộc đổi thay khó lường.
Sau một giai đoạn ngắn, hơn 5 năm trải các đời vua sau ông - gồm : Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh - năm 1888, con trai Dục Đức là Nguyến Phúc Bửu Lân được đưa lên ngôi, tức là vua Thành Thái, vào năm 1889. Lên ngôi, vua Thành Thái bèn cho xây lăng mộ cha mình được đường hoàng (tại chỗ có mộ Dục Đức) và đặt tên là An Lăng. Nơi thờ cũng vua Dục Đức thì đặt tại chùa Tường Quang chỉ cách đó vài trăm met.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6509.jpg
Qua cổng, vào trong An Lăng

Lăng Dục Đức tuy được vua Thành Thái cho qui hoạch xây dựng đường hoàng, nhưng khá đơn giản. Không có Bi đình, không có tượng voi ngựa và quan văn, võ. Các cổng và vòng thành bao quanh đều xây bằng gạch, nay khuôn viên sân chầu khá tan hoang, cỏ mọc dày.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6508.jpg
Qua sân trước, đến cổng vào khu mộ. Cổng 3 tầng xây bằng gạch, ngày xưa chắc cũng khá đẹp và uy nghiêm.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6512.jpg
Cổng nhỏ và bức Bình phong trước mộ vua.
Khu mộ nhà vua lại được bao quanh bởi một vòng tường thành, cao ngang đầu người, có 3 cổng gạch. Cổng lớn chính diện đi vào khu mộ, và hai cổng nhỏ hai bên thẳng trước mộ vua và mộ bà Từ Minh.

tunbo
30-09-2009, 10:57 AM
Năm 1906, bà Từ Minh tạ thế, triều đình qui hoạch lại lăng, đưa bà vào an táng trong An Lăng, cạnh mộ vua Dục Đức theo kiểu song táng "càn khôn hiệp đức" giống khu mộ vua Gia Long.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6511.jpg
Qua cổng tam quan lớn, là bước vào khu trọng địa của An Lăng (ý nghĩa giống như Bửu Thành)
Trong khu vực này, có một kiến trúc, gọi là tòa Huỳnh Ốc, xây giống kiểu phương đình, mái lợp ngói hoàng lưu ly (nhưng đến nay đã hỏng nhiều, được vá bằng tole), bờ nóc có đắp trang trí hình rồng phượng.

An Lăng cũng không có Bi đình, không có bia đá. Trong tòa Huỳnh Ốc trang hoàng đơn giản. chỉ có một cái sập và một cái bàn bằng đá để bày các đồ lễ vật khi cúng. Hiện nay Huỳnh Ốc xuống cấp nghiêm trọng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6517.jpg
Các cột trụ bằng gỗ của Huỳnh Ốc đều phải được chống bằng các giá gỗ.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6518.jpg
Sập đá và bàn đá để bày đồ thờ trong Huỳnh Ốc
(Vì bờ thành thấp, An Lăng hiện nay thành ra chỗ tụ tập của đám thanh thiếu niên, mặc dù cửa lăng luôn khóa. Khi ông bảo vệ mở cửa lăng đưa tôi vào, có một đám thanh niên đang ngồi nhậu trong Huỳnh Ốc, đồ nhậu được bày ngay trên bàn đá)

tunbo
30-09-2009, 11:03 AM
Hai bên của Huỳnh Ốc là mộ vua Dục Đức và bà Từ Minh. Hai ngôi mộ được xây bằng đá rất đơn giản, có Bình phong phía trước (ngay sau cổng phụ trước mộ), và bức Hậu án được xây trùng luôn với tường bao phía sau.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6513.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6514.jpg
Mộ vua Dục Đức

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6516.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6515.jpg
Mộ bà Từ Minh
Hai ngôi mộ đá đơn giản giống hệt nhau, ở hai bên Huỳnh Ốc

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6519.jpg
Hậu án của khu lăng cũng được xây trùng vào tường bao phía sau, ngay sau tòa Huỳnh Ốc

tunbo
01-10-2009, 10:26 PM
Dục Đức khi chết, để lại 8 bà vợ. Sau khi vua bị phế truất và tống ngục, các bà vợ vua hình như cũng phải rời Hoàng cung, ra ngoài ở cùng dân.
Khi triều đình đưa Bửu Lân lên ngôi (có sách nói rằng do sinh thời, Dục Đức cũng có đi lại với người Pháp, nên khi Đồng Khách mất, viên Khâm sứ Pháp có "gợi ý" đưa con Dục Đức lên ngôi - Việt Nam sử lược - Trần trọng Kim), cậu nhỏ 10 tuổi cùng mẹ là bà Từ Minh, cũng đang ở trong ngục.
Tháng 8/1899 - năm Thành Thái thứ 11, nhà vua lúc này đã 21 tuổi - vua Thành Thái cho xây Điện Long Ân ở gần lăng mộ vua cha, để làm nơi thờ Dục Đức. Trong khuôn viên Điện Long Ân, vua cũng cho xây dựng các công trình phối thuộc như Tả, Hữu phối đường; Tả, Hữu tòng viện để làm chỗ ăn ở cho 7 bà vợ khác của cha, và để các bà ấy lo hương khói thờ phụng Dục Đức. (bà Từ minh khi đó là Thái hậu, được ở trong Đại Nội - cung Diên Thọ)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6520.jpg
Điện Long Ân - nhìn từ cửa An Lăng. Khu lăng và khu điện thờ vua Dục Đức đều được xây tường thành bao quanh.

Điện Long Ân cách khu lăng Dục Đức chừng 50 met, ngay mặt đường một con phố nhỏ (quên mất tên phố rồi, vì vội và trời sắp tối). Thực ra, tôi đến Điện Long Ân trước, sau đó cũng nhờ cơ may mới vào được lăng Dục Đức (sẽ nói sau). Điện thờ vua Dục Đức nằm trên phố, còn khu lăng nằm trong bãi bên trong, hoang vắng hơn nhiều. Vì ngày trước, xung quanh các khu lăng mộ vua là "cấm địa", dù sau này khi triều Nguyễn không còn, lệnh cấm địa ấy không còn tác dụng, nhưng kể cả khi hiện nay An Lăng coi như nằm trong nội thành, thì khu vực sát quanh lăng, cũng ít nhà dân hơn.

tunbo
01-10-2009, 10:37 PM
Chính xác thì Điện Long Ân nằm song song với con phố, đi vào điện bằng cửa phụ bên trái - cửa phụ bên phải mở ra để đi sang khu lăng. Cổng chính, tôi ... nhìn từ trong ra :).

Cổng chính Điện Long Ân trông vẫn khá hoành tráng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6469.jpg
Từ sân Điện Long Ân nhìn ra cổng chính

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6473.jpg
Cổng chính và bức Bình phong

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6471.jpg
Cái vạc nằm ngay cạnh Bình phong, với cái bàn được xây dính vào bệ gạch (chắc lúc sửa chữa sau này)

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6467.jpg
Chính điện Long Ân, nhìn từ cổng chính

tunbo
12-10-2009, 10:52 PM
Thực ra, Lăng Dục Đức là ngôi lăng đơn giản nhất trong số các lăng tẩm ở Huế, mặc dù hiện nay nó nằm ngay trong khu vực nội thành Huế, nhưng khách viến thăm không nhiều. Rất nhiều trong số khách ghé thăm lăng là vì ở đó, ngoài các kiến trúc cổ ngày xưa, còn có mộ phần hai vị vua yêu nước : vua Thành Thái và vua Duy Tân (còn có thông tin rằng, người ta đang tính chuyện rước di cốt vua Hàm Nghi ở Pháp về an táng trong khuôn viên An Lăng).
Sau khi vua Tự Đức chết, ngai vàng triều Nguyễn nằm trong sự thao túng của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Thành (giai đoạn đầu) và của người Pháp (giai đoạn sau). Các đời vua Nguyễn về sau có hai dòng chính :
- Dòng Dục Đức : Dục Đức - Thành Thái - Duy Tân
- Dòng Đồng Khánh : Đồng Khánh - Khải Định - Bảo Đại
Đây là hai dòng có 3 thế hệ "ông - cha - con" làm vua, tất nhiên xen kẽ nhau. Chen vào đó là các vị vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi.
Trừ vua Hiệp Hòa là con vua Thiệu Trị (em vua Tự Đức), còn lại thì Đồng Khánh, Hàm Nghi, Kiến Phúc là ba anh em ruột (nhưng thứ tự làm vua thì lộn xộn : Kiến Phúc - Hàm Nghi - Đồng Khánh).

Lan man một chút về lịch sử. Dục Đức (Nguyễn Phúc Ưng Chân) thực ra không phải là nhân vật nổi bật - trừ việc lên ngôi 3 ngày rồi bị phế truất và tống ngục đến chết. Vì thời gian làm vua của ông ta ngắn ngủi đến mức còn chưa kịp đặt niên hiệu của mình. Nhưng thực tế, ông ta bị phế truất hoàn toàn là do ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Khi Thuyết và Tường phế vua Dục Đức, tất cả các quan đều sợ uy hai người, duy có ông Phan Đình Phùng dám đứng ra hạch lại : "Tự quân (vua Dục Đức) chưa có lỗi lầm gì, cớ sao lại phế?". Vì việc ấy, ông Phùng bị Thuyết cách tuột hết quan chức, đuổi về quê. Một số sách nói rằng, khi đó ông Thuyết rất giận ông Phan Đình Phùng, muốn giết đi, nhưng lại nghĩ ông Phùng là người can đảm, sau này có thể là người chống Pháp kiên cường.(Sau này khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, quả nhiên ông Phan Đình Phùng dấy nghĩa, là một trong những lá cờ đầu chống Pháp lúc đó).
Có một điều, ông Trần Trọng Kim, trong cuốn Việt Nam sử lươc của mìnhh, lại đánh giá ông Thuyết rất tồi tệ, ông Trần nói rằng, sau khi đưa vua Hàm Nghi lên Tân Sở, bị Pháp vất ráp gắt gao, ông Thuyết bỏ trốn ra Lai Châu ở với người dân tộc, sau bị truy bách quá mới trốn sang Tàu - chứ không phải ông Thuyết sang tàu cầu viện như các sách sau này vẫn nói. Ông Trần mạt sát ông Thuyết trong sách của mình, nhưng rất đề cao và tỏ ra khâm phục hai con trai ông Thuyết là Tôn Thất Đạm - thủ lĩnh của một cánh nghĩa quân, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, đã thắt cổ tử tiết - và Tôn Thất Thiệp - cận vệ của vua Hàm Nghi, chết trong đêm vua Hàm Nghi bị phản, khi ra sức bảo vệ nhà vua.
Sách của ông Trần xuất bản trong thời nhà Nguyễn đang tại vị (1921), nhưng ông ta tiến bộ ở chỗ, thừa nhận triều Tây Sơn là một triều đại chính thống, vua Quang Trung có công lao lớn với nước nhà - chứ không như các sử gia triều Nguyễn gọi Tây Sơn là "ngụy triều", gọi vua Quang Trung là "giặc Huệ".
Việc ông Thuyết và ông Tường tự phế vua Dục Đức và giam đến chết, hai ông ấy còn giết vua Hiệp Hòa, (và có nhiều người rằng Nguyễn Văn Thành đã đầu độc giết vua Kiến Phúc) sử sách đều ghi, nhưng thật khó hiểu là triều Nguyễn khi đó - và cả đến sau này - vẫn coi Dục Đức, Hiệp Hòa là phế đế, không cho thờ trong Thế Miếu.


Quay trở lại với vua Đục Đức. Ông ta có một số phận hẩm hiu và bất hạnh, lẽ ra rồi cũng chẳng ai nhớ đến ông ta. Cái ngôi mộ sơ sài của ông ấy, chắc cũng như bao ngôi mộ bình thường khác, chẳng có gì đặc biệt. Nhưng rồi sau này ông ta có được cả một khu lăng đường hoàng - có thể nói, lăng Dục Đức được như thế là nhờ ở vua Thành Thái, con trai của ông ta, và vua Duy Tân, cháu nội của ông ta. Lăng mộ, Long Ân điện, Tả, Hữu tòng viện, Tả Hữu phối đường là do vua Thành Thái cho xây, một số công trình phụ trợ sau này do vua Duy Tân cho xây.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6475.jpg
Điện Long Ân, nhìn chếch từ phía con đường bên ngoài - giờ đã nhớ ra tên đường là đường Tân Lăng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6474.jpg
Cổng vào khu vực các công trình phối thuộc phía sau điện.

jimmy nguyen
13-10-2009, 08:30 AM
Lan man một chút về lịch sử. Dục Đức (Nguyễn Phúc Ưng Chân) thực ra không phải là nhân vật nổi bật - trừ việc lên ngôi 3 ngày rồi bị phế truất và tống ngục đến chết. Vì thời gian làm vua của ông ta ngắn ngủi đến mức còn chưa kịp đặt niên hiệu của mình. Nhưng thực tế, ông ta bị phế truất hoàn toàn là do ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Khi Thuyết và Tường phế vua Dục Đức, tất cả các quan đều sợ uy hai người, duy có ông Phan Đình Phùng dám đứng ra hạch lại : "Tự quân (vua Dục Đức) chưa có lỗi lầm gì, cớ sao lại phế?". Vì việc ấy, ông Phùng bị Thuyết cách tuột hết quan chức, đuổi về quê. Một số sách nói rằng, khi đó ông Thuyết rất giận ông Phan Đình Phùng, muốn giết đi, nhưng lại nghĩ ông Phùng là người can đảm, sau này có thể là người chống Pháp kiên cường.(Sau này khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, quả nhiên ông Phan Đình Phùng dấy nghĩa, là một trong những lá cờ đầu chống Pháp lúc đó).
Có một điều, ông Trần Trọng Kim, trong cuốn Việt Nam sử lươc của mìnhh, lại đánh giá ông Thuyết rất tồi tệ, ông Trần nói rằng, sau khi đưa vua Hàm Nghi lên Tân Sở, bị Pháp vất ráp gắt gao, ông Thuyết bỏ trốn ra Lai Châu ở với người dân tộc, sau bị truy bách quá mới trốn sang Tàu - chứ không phải ông Thuyết sang tàu cầu viện như các sách sau này vẫn nói. Ông Trần mạt sát ông Thuyết trong sách của mình, nhưng rất đề cao và tỏ ra khâm phục hai con trai ông Thuyết là Tôn Thất Đạm - thủ lĩnh của một cánh nghĩa quân, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, đã thắt cổ tử tiết - và Tôn Thất Thiệp - cận vệ của vua Hàm Nghi, chết trong đêm vua Hàm Nghi bị phản, khi ra sức bảo vệ nhà vua.
Sách của ông Trần xuất bản trong thời nhà Nguyễn đang tại vị (1921), nhưng ông ta tiến bộ ở chỗ, thừa nhận triều Tây Sơn là một triều đại chính thống, vua Quang Trung có công lao lớn với nước nhà - chứ không như các sử gia triều Nguyễn gọi Tây Sơn là "ngụy triều", gọi vua Quang Trung là "giặc Huệ".
Việc ông Thuyết và ông Tường tự phế vua Dục Đức và giam đến chết, hai ông ấy còn giết vua Hiệp Hòa, (và có nhiều người rằng Nguyễn Văn Thành đã đầu độc giết vua Kiến Phúc) sử sách đều ghi, nhưng thật khó hiểu là triều Nguyễn khi đó - và cả đến sau này - vẫn coi Dục Đức, Hiệp Hòa là phế đế, không cho thờ trong Thế Miếu.


Xen vô tí trong bài của bác Tun, theo tất cả những sử sách em đã đọc thì hầu như tất cả đều xem Tôn Thất Thuyết là nghịch thần, chuyên quyền... chứ không riêng gì sử gia Trần Trọng Kim...

tunbo
13-10-2009, 12:45 PM
Hi Jim.
Đúng là nhiều sử sách vẫn nhìn nhận Tôn Thất Thuyết là nghịch thần, chuyên quyền, nhưng vẫn nói ông ta là người chống Pháp quyết liệt trong hàng ngũ quan triều khi đó. Tuy nhiên ông Trần Trọng Kim - theo như cách nói của ông ta - dường như có đủ tài liệu để nói là ông Thuyết bỏ vua Hàm Nghi lại Tân Sở để trốn ra Lai Châu, rồi bí bách quá mới trốn tiếp sang Tàu, chứ không như sách sử ở trường học nói rằng, ông ta sang Tàu cầu viện.
Hơn nữa, lạ là ở chỗ, coi ông ta là nghịch thần, vậy những ông vua bị ông ta bức hại, vẫn không được một vị trí thờ tự trong Thế Miếu.

tunbo
13-10-2009, 07:36 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6499.jpg
Bên trong Điện Long Ân - ban thờ 3 vị vua là ông - cha - con : Dục Đức - Thành Thái - Duy Tân. Ban thờ vua Dục Đức ở giữa, vua Duy Tân bên trái ảnh, vua Thành Thái bên phải

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6484.jpg
Ban thờ Dục Đức - trong đó có bài vị vua Đục Đức và bà Từ Minh

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6485.jpg

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6487.jpg
Bức hoành ghi chữ Long Ân Điện ngay bên trên ban thờ vua Dục Đức

tunbo
14-10-2009, 10:16 PM
http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6481.jpg
Khu thờ vua Thành Thái, gian điện bên phải từ ngoài nhìn vào

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6482.jpg
Bàn thờ vua Thành Thái, có cả ảnh và tượng

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6480.jpg
Gian điện bên trái thờ vua Duy Tân

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6483.jpg
Bàn thờ vua Duy Tân. Bức tượng là tượng vua ở tuổi trưởng thành, còn bức ảnh chụp khi nhà vua mới lên ngôi, đang là một chú nhóc 9,10 tuổi.

Thời Dục Đức, vua chưa có ảnh chụp, mãi sau này, đến tận đời vua Đồng Khánh mới bắt đầu cho thợ vẽ truyền thần lại, sau nữa đến giai đoạn vua Thành Thái về sau mới có nhiều ảnh chụp vua - do công nghệ Tây phương. Ngày xưa, các bậc vua chúa thường cấm người khác nhìn thẳng vào mặt mình, dường như để đề phòng bị nhận diện (một phương pháp chống ... ám sát :D)

tunbo
19-10-2009, 11:16 PM
Sau khi Pháp phế truất vua Thành Thái và đưa ông vào giam lỏng tại Vũng Tàu, vua Duy Tân được đưa lên ngôi năm 1907. Triều đình Huế cho xây thêm một số tòa nhà trong khuôn viên điện Long Ân để cho các bà phi của vua Thành Thái ăn ở. Năm 1916, vua Duy Tân tham gia âm mưu đánh Pháp cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân bất thành, nhà vua bị bắt và bị đày đi Réunion cùng lúc với vua cha Thành Thái. Năm 1945, vua Duy Tân tử nạn máy bay ở châu Phi (về cái chết của vua Duy Tân, khi đó được thông báo là do tai nạn, nhưng cũng có nhiều giả thuyết về việc ông bị mưu hại), một lễ truy điệu nhà vua được tổ chức ở điện Long Ân, và nhà vua được đưa vào thờ chung tại đây.
Năm 1948, vua Thành Thái được trở về Việt Nam, nhưng bị an trí tại Sài Gòn. Năm 1954, vua Thành Thái mất tại Sài Gòn, và được đưa về chôn cất trong khu vực An Lăng, đồng thời cũng được đưa vào thờ tại điện Long Ân cùng cha và con của mình.
Năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng mộ vua Thành Thái. Kể từ đó, ba thế hệ dòng Dục Đức cùng được an táng và thờ chung tại An Lăng.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6492.jpg
Cửa hông đi vào phía sau điện Long Ân

Mấy tòa nhà cho các bà phi của vua Thành Thái ở, sau này bị quân Pháp lấy làm chỗ đóng đồn năm 1947, nên đã hư hỏng gần hết.


http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6493.jpg
Cửa hông gian chái của Long Ân điện

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6498.jpg
Trong gian chái này, có một dãy các bức ảnh tư liệu về vua Thành Thái và vua Duy Tân.

Căn chái này, có lối đi ngược ra chính điện. Ban đầu tôi vào chính điện bằng lối ấy, tối quá, nhá đèn chụp, bị một anh bảo vệ trẻ tuổi ... đuổi ra. Ra đến cái sân bên hông, gặp một bác bảo vệ già, bác này thấy mang máy, bèn xông ra ... dắt vào cho chụp :)), sau đó mới lấy chìa khóa cổng khu lăng, dắt sang giới thiệu như guide.

http://i203.photobucket.com/albums/aa25/tunbo712/IMG_6501.jpg
Hậu án và cổng hậu của Long Ân điện (hiện cổng hậu đã bị xây bít)

Sau khi loanh quanh trong điện Long Ân, và được ông già bảo vệ dắt qua khu lăng Dục Đức, thì bị điện thoại của nhà xe réo về lên xe, cuối cùng không kịp chạy qua lăng mộ vua Thành Thái và vua Duy Tân gần đó (chỉ cách chừng gần trăm met. Tiếc quá, nhưng vẫn phải lên xe ôm phóng về lấy đồ và phi thẳng lên xe, và ăn bữa duy nhất trong ngày lúc 20g30 ở ... Đông Hà.

Đến đây là tôi hết ảnh An Lăng. Bạn nào có anh lăng mộ hai vị vua Thành Thái và Duy Tân, post giúp cho trọn vẹn, còn không thì lần sau qua Huế, nhất định phải ghe viếng mộ hai vị vua yêu nước.